Top 10 Cầu thủ giành nhiều quả bóng vàng nhất trong lịch sử

Green Apple 9443 0 Báo lỗi

Quả bóng vàng châu Âu là một giải thưởng bóng đá thường niên được trao cho cầu thủ xuất sắc nhất trong năm trên toàn thế giới do tạp chí France Football tổ ... xem thêm...

  1. Ngày ấy, khi Lionel Messi còn là một cậu bé nhỏ với ước mơ trở thành một cầu thủ bóng đá vĩ đại, chẳng ai có thể ngờ rằng anh sẽ trở thành một trong những ngôi sao hàng đầu thế giới. Với tài năng và sự cống hiến không ngừng nghỉ, Messi đã vượt qua mọi khó khăn với 8 lần là chủ nhân của danh hiệu quả bóng vàng, một kỷ lục không thể phủ nhận.


    Vào năm 2023, Messi đã một lần nữa ghi dấu ấn trong lịch sử bóng đá khi giành giải quả bóng vàng của tạp chí France Football. Điều đặc biệt là người xướng tên và trao giải cho Messi chính là David Beckham, là người đã có công lớn đưa anh sang Mỹ thi đấu và mở ra một chương mới trong sự nghiệp. Với danh hiệu quả bóng vàng thứ 8 trong sự nghiệp, Messi đã khẳng định vị thế của mình là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại. Trước đó, anh đã giành chiến thắng vào các năm 2009, 2010, 2011, 2012, 2015, 2019 và 2021. Để có được danh hiệu này, Messi đã thi đấu xuất sắc tại VCK World Cup 2022, góp phần quan trọng vào chiến thắng nghẹt thở của tuyển Argentina trước Pháp trong trận chung kết. Đó là một trận đấu đầy cảm xúc, nơi Messi đã thể hiện khả năng vượt trội của mình và mang về chiến thắng lịch sử cho đội tuyển quốc gia.

    Lionel Messi
    Lionel Messi
    Lionel Messi
    Lionel Messi

  2. Cristiano Ronaldo sinh ngày 5 tháng 2 năm 1985, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bồ Đào Nha hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Manchester United và là đội trưởng của đội tuyển bóng đá quốc gia Bồ Đào Nha. Được coi là cầu thủ xuất sắc nhất thế giới và là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại, Ronaldo là chủ nhân của 5 Quả bóng vàng châu Âu và 4 Chiếc giày vàng châu Âu, cả hai đều là kỷ lục của một cầu thủ châu Âu. Anh đã giành được 32 danh hiệu trong sự nghiệp của mình, bao gồm 7 chức vô địch quốc gia, 5 UEFA Champions League, 1 UEFA European Championship và 1 UEFA Nations League. Ronaldo đang nắm giữ kỷ lục nam cầu thủ châu Âu có nhiều lần ra sân quốc tế nhất (188), cầu thủ ghi nhiều bàn thắng quốc tế nhất (117), cầu thủ ra sân nhiều nhất (183), ghi nhiều bàn thắng nhất (140) và có nhiều pha kiến tạo nhất (42) tại UEFA Champions League, cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất giải vô địch bóng đá châu Âu (14). Anh là một trong số ít những cầu thủ đã có hơn 1.100 lần ra sân và đã ghi hơn 800 bàn thắng trong sự nghiệp cho câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia.

    Năm 2017, danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu được trao cho ngôi sao của CLB Real Madrid và đội tuyển Bồ Đào Nha - Cristiano Ronaldo, giúp bộ sưu tập Quả bóng vàng của anh lên đến con số 5 - chỉ sau thành tích của lionnel Messi. Tính đến thời điểm hiện tại, Cristiano Ronaldo là cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá Bồ Đào Nha. Đồng thời, anh cũng là cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất khi chơi trong màu áo của CLB Real Madrid. Anh đã cùng các đồng đội trong CLB Real Madrid 1 lần vô địch La Liga, 2 lần vô địch Champions League vào năm 2014 và 2016, Á quân châu Âu năm 2004 và hạng 4 World Cup 2006. Đặc biệt là chức cúp vô địch Euro 2016 đã giúp anh thực sự trở thành một huyền thoại. Trước khi gia nhập "gia đình Real Madrid", anh đã cùng CLB Manchester United 3 lần giành chức vô địch Ngoại hạng Anh và 1 lần vô địch Champions League vào năm 2008. Cristiano Ronaldo giành quả bóng vàng vào các năm 2008, 2013, 2014, 2016 và 2017.

    Cristiano Ronaldo
    Cristiano Ronaldo
    Cristiano Ronaldo
    Cristiano Ronaldo
  3. Bóng đá Pháp đã sản sinh ra rất nhiều tài năng và trong số đó Michel Platini được xem là nhân vật vĩ đại nhất. Michel Platini sinh ngày 21 tháng 6 năm 1955 tại Pháp, ông là Tiền vệ xuất sắc nhất mà nước nước Pháp từng sản sinh. Trong sự nghiệp thi đấu của mình, Michel Platini được biết đến là cầu thủ tấn công hay nhất của thập niên 80. Sự nghiệp của ông đạt tới đỉnh cao trong mùa giải 1984 - 1985, khi ông cùng đội tuyển Pháp giành chức vô địch châu Âu và ngay sau đó là chiến thắng tại Cup C1 cùng với CLB Juventus. Michel Platini là một cựu cầu thủ của Juventus, cựu huấn luyện viên bóng đá và cũng là cựu Chủ tịch Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) từ năm 2007 đến năm 2016.


    Michel Platini đã giành được 3 Quả Bóng Vàng liên tiếp các năm 1983, 1984 và 1985. Trong sự nghiệp cầu thủ, Platini từng khoác áo các câu lạc bộ Nancy, Saint-Étienne và Juventus. Platini là thành viên đội tuyển Pháp vô địch châu Âu năm 1984, giải đấu mà ông đồng thời là cầu thủ xuất sắc nhất và vua phá lưới. Ông cũng từng tham dự các World Cup 1978, 1982 và 1986, với thành tích hạng ba năm 1986 và hạng tư năm 1982. Platini cùng với Alain Giresse, Luis Fernández và Jean Tigana đã tạo nên Bộ tứ huyền ảo, hàng tiền vệ là trái tim của đội tuyển Pháp trong suốt thập niên 1980. Ông từng 3 lần được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu. Platini từng là huấn luyện viên dẫn dắt đội tuyển Pháp ở Euro 92. Ông cũng là đồng Chủ tịch Ban tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 (người còn lại là Fernand Sastre) ngay trên quê hương, giải đấu mà đội tuyển Pháp đã đoạt chức vô địch.

    Michel Platini
    Michel Platini
    Michel Platini
    Michel Platini
  4. Johan Cruyff tên đầy đủ là Hendrik Johannes Cruyff (sinh 25 tháng 4 năm 1947 tại Amsterdam - mất ngày 24 tháng 3 năm 2016 tại Barcelona), là một cố cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Hà Lan. Khi là cầu thủ, ông từng giành giải thưởng Quả Bóng Vàng ba lần vào các năm 1971, 1973 và 1974. Cruijff là một trong những thành viên nổi tiếng nhất của triết lý bóng đá có tên Bóng đá tổng lực do Rinus Michels tạo ra. Trong thập niên 1970, bóng đá Hà Lan phát triển từ một nền bóng đá ít tên tuổi trở thành một thế lực. Cruyff dẫn dắt đội tuyển Hà Lan vào đến chung kết Giải bóng đá vô địch thế giới 1974 và đoạt được danh hiệu Quả bóng vàng dành cho cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu đó. Cruyff thành thạo năm ngoại ngữ.


    Với biệt danh "Thánh Johan", ông được coi là cầu thủ Hà Lan xuất sắc nhất mọi thời đại và là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất lịch sử bóng đá thế giới. Tại cấp độ câu lạc bộ, Cruyff khởi nghiệp tại Ajax. Ông đã cùng câu lạc bộ 8 lần vô địch quốc gia và giành ba Cúp C1 châu Âu. Năm 1973 ông chuyển đến FC Barcelona và lập Kỷ lục chuyển nhượng cầu thủ bóng đá mới. Ông có được danh hiệu La Liga cùng đội bóng ngay mùa đầu tiên và giành Quả bóng vàng châu Âu năm đó. Sau khi giải nghệ vào năm 1984, Cruyff cũng có nhiều thành công trong sự nghiệp huấn luyện viên với Ajax và FC Barcelona. Sau này ông vẫn là một cố vấn có ảnh hưởng ở hai câu lạc bộ. Con trai ông Jordi cũng là một cầu thủ chuyên nghiệp. Tháng 10 năm 2015, Cruyff, từng nghiện hút thuốc nặng, bị chẩn đoán mắc ung thư phổi. Ông qua đời vì bệnh này ngày 24 tháng 3 năm 2016.

    Johan Cruyff
    Johan Cruyff
    Johan Cruyff
    Johan Cruyff
  5. Marcel van Basten sinh ngày 31 tháng 10 năm 1964, là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá người Hà Lan. Trước đây, ông là cầu thủ từng chơi cho Ajax Amsterdam và AC Milan trong thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Ông được xem là một trong những tiền đạo xuất sắc nhất mọi thời đại với thành tích 276 bàn trong một sự nghiệp bị kết thúc khá ngắn ngủi do chấn thương mắt cá. Được biết đến với sức mạnh cùng trái bóng, kĩ năng chiến thuật nhạy bén cùng những cú sút và volley xuất sắc. Van Basten đã từng 3 lần giành danh hiệu Quả Bóng Vàng vào các năm 1988, 1989 và 1992 và một lần là cầu thủ xuất sắc nhất thế giới của FIFA năm 1992. Ông được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc thứ 9 của thế kỉ 20 bởi IFFHS. Van Basten cũng được bầu ở vị trí thứ 8 trong cuộc bình bầu được tổ chức bởi tạp chí France Football do các cựu danh thủ từng dành quả bóng vàng châu Âu bình chọn cầu thủ của thế kỉ. Ông là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất lịch sử bóng đá.


    Marco van Basten bắt đầu chơi bóng khi lên 6 tuổi. Câu lạc bộ đầu tiên của ông là đội bóng địa phương, EDO. Một năm sau ông đến UVV Utrecht. Sau 10 năm chơi ở đó ông đã chuyển đến một câu lạc bộ khác là Elinkwijk. Ông chơi tại đây một thời gian ngắn trước khi chuyển tới Ajax. Ông chơi trận đầu cho Ajax vào tháng 4 năm 1982, ghi bàn trong lần đầu xuất hiện góp phần vào chiến thắng 5-0 trước NEC Nijmegen. Trận đó ông ra sân để thay cho Johan Cruijff, huyền thoại của bóng đá Hà Lan. Trong những năm chơi cho Ajax ông ghi được rất nhiều bàn thắng và thể hiện được tài năng sáng chói của mình. Mùa bóng 1982 - 1983 do có vua phá lưới Châu Âu, Wim Kieft, người cạnh tranh vị trí tiền đạo với anh ở câu lạc bộ nên anh chỉ ra sân 20 trận và ghi được 9 bàn. Tuy nhiên, sau mùa bóng đó Kieft bị bán cho một câu lạc bộ ở Serie A, Pisa. Ông trở thành vua phá lưới ở 4 mùa giải sau đó (1984, 1985, 1986 and 1987), ghi 117 bàn trong 112 trận. Đỉnh cao là ở mùa giải 1985-86 ông ghi 37 bàn trong 26 trận và ông đoạt danh hiệu Chiếc giày vàng châu Âu năm đó. Mùa giải 1986-87, van Basten ghi bàn tạo nên chiến thắng trong trận chung kết Cúp C2 gặp Lokomotive Leipzig.

    Marco van Basten
    Marco van Basten
    Marco van Basten
    Marco van Basten
  6. Franz Anton Beckenbauer sinh ngày 11 tháng 9 năm 1945, là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Đức. Trong suốt sự nghiệp thi đấu của mình, ông có biệt danh là Der Kaiser ("Hoàng đế") vì phong cách lịch lãm, sự nổi bật, khả năng lãnh đạo trên sân, và vì đồng thời tên ông - "Franz"- gợi nhớ đến các vị hoàng đế Áo. Beckenbauer được coi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất lịch sử bóng đá. Là một cầu thủ đa năng xuất phát ở vị trí tiền vệ, Beckenbauer đã thành danh ở vị trí trung vệ. Ông được ghi nhận là người khai sinh ra vai trò hậu vệ quét hiện đại (libero). Beckenbauer đã giành Quả bóng vàng 2 lần vào các năm 1972 và 1976 và có 103 lần khoác áo đội tuyển Tây Đức. Cùng với Mário Zagallo của Brazil và Didier Deschamps của Pháp, ông là một trong ba người đã vô địch World Cup với tư cách cầu thủ và huấn luyện viên. Ông đoạt chức vô địch World Cup với tư cách đội trưởng năm 1974 và lặp lại kỳ tích tương tự với tư cách huấn luyện viên năm 1990.


    Beckenbauer là đội trưởng đầu tiên đoạt cúp vô địch World Cup và EURO ở tuyển quốc gia và UEFA Champions League ở câu lạc bộ. Ông được xếp trong "Đội hình thế giới của thế kỷ 20" vào năm 1998, "Đội hình trong mơ FIFA World Cup" năm 2002, "Đội hình trong mơ Quả bóng vàng" năm 2020, và năm 2004 được xếp tên trong danh sách 100 cầu thủ còn sống vĩ đại nhất thế giới của FIFA. Ở cấp câu lạc bộ với Bayern München, Beckenbauer đã giành được UEFA Cup Winners 'Cup (cúp C2) vào năm 1967 và ba cúp UEFA Champions League (cúp C1) liên tiếp từ năm 1974 đến năm 1976. Nhờ thành tích này, ông trở thành cầu thủ đầu tiên giành được ba cúp UEFA Champions League với tư cách là đội trưởng đội bóng. Ông trở thành huấn luyện viên và sau đó là chủ tịch của câu lạc bộ Bayern München. Sau hai lần thi đấu với New York Cosmos, ông được vinh danh vào Sảnh đường Danh vọng Bóng đá Quốc gia Hoa Kỳ.

    Franz Beckenbauer
    Franz Beckenbauer
    Franz Beckenbauer
    Franz Beckenbauer
  7. Ronaldo Luís Nazário de Lima sinh ngày 18 tháng 9 năm 1976, là một doanh nhân người Brazil, chủ tịch câu lạc bộ Real Valladolid, và là một cựu cầu thủ bóng đá từng chơi ở vị trí tiền đạo. Được mệnh danh là O Fenômeno ("Người ngoài hành tinh") và anh được coi là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại. Là một tiền đạo đa năng, Ronaldo là người có ảnh hưởng lớn đến thế hệ tiền đạo sau này. Các giải thưởng cá nhân của anh bao gồm ba lần được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA và giành được hai giải Quả bóng vàng vào các năm 1997 và 2002. Ronaldo bắt đầu sự nghiệp cầu thủ tại Cruzeiro và chuyển đến PSV vào năm 1994. Anh gia nhập Barcelona vào năm 1996 với mức phí chuyển nhượng kỷ lục thế giới vào thời điểm đó và ở tuổi 20, anh được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất năm 1996 của FIFA, anh trở thành người trẻ nhất nhận giải. Năm 1997, Inter Milan phá kỷ lục thế giới với Ronaldo, đưa anh trở thành cầu thủ đầu tiên kể từ Diego Maradona hai lần phá kỷ lục chuyển nhượng thế giới. Ở tuổi 21, anh nhận Quả bóng vàng 1997 và anh tiếp tục là người trẻ nhất nhận giải.


    Ronaldo gia nhập Real Madrid năm 2002 và giành chức vô địch La Liga 2002 -2003. Anh đã chơi ở A.C. Milan và Corinthians trước khi giải nghệ vào năm 2011 vì chấn thương. Là một trong những vận động viên thể thao đắt giá nhất trên thế giới trong sự nghiệp thi đấu của mình, đội giày Nike Mercurial đầu tiên - R9 - đã được đặt hàng riêng cho Ronaldo vào năm 1998. Anh có tên trong danh sách FIFA 100 những cầu thủ vĩ đại nhất còn sống do Pelé lựa chọn vào năm 2004 và đã được giới thiệu vào Bảo tàng Danh vọng Bóng đá Brazil, Đại sảnh Danh vọng Bóng đá Ý, Đại sảnh Danh vọng Inter Milan và Đại sảnh Danh vọng Real Madrid. Sau khi từ giã sự nghiệp, Ronaldo tiếp tục công việc của mình với tư cách là Đại sứ thiện chí của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, vị trí mà anh được bổ nhiệm vào năm 2000. Anh từng là đại sứ cho FIFA World Cup 2014. Ronaldo trở thành chủ sở hữu của Real Valladolid vào tháng 9 năm 2018, sau khi mua 51% cổ phần của câu lạc bộ.

    Ronaldo
    Ronaldo
    Ronaldo
    Ronaldo
  8. Alfredo di Stéfano (4 tháng 7 năm 1926 tại Barracas, Buenos Aires, Argentina - 7 tháng 7 năm 2014 tại Madrid, Tây Ban Nha) là cố cầu thủ bóng đá kiêm huấn luyện viên gốc Argentina. Tên tuổi của ông gắn bó với CLB Real Madrid, và là đối tác ăn ý trên hàng công cùng với Ferenc Puskás trong suốt thời kỳ CLB này thống trị các cúp vô địch châu Âu trong thập niên 1950, đó là thời kì mà Real Madrid dành 5 chiếc cúp vô địch châu Âu liên tiếp từ 1956. Di Stéfano cũng từng chơi trong màu áo 3 đội tuyển quốc gia là Argentina, Colombia và Tây Ban Nha. Ông từng 2 lần giành Quả Bóng Vàng vào các năm 1957 và 1959. Ông là một trong những cầu thủ xuất sắc và vĩ đại nhất lịch sử bóng đá. Di Stéfano với biệt danh Saeta rubia (Mũi tên bạc) đã được ghi danh vào International Football Hall of Fame. Ông là một tiền đạo mạnh mẽ với thể lực tuyệt vời, sự linh hoạt trong chiến thuật và một nhãn quan sắc nhọn. Ông hiện là tay săn bàn xuất sắc thứ 3 mọi thời đại trong lịch sử giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha (hiện gọi là La Liga), với thành tích 228 bàn trong 329 trận, chỉ sau có Hugo Sánchez (234 bàn) và Telmo Zarra (251 bàn).


    Di Stéfano cũng là tay săn bàn xuất sắc nhất tại cúp nội địa trong lịch sử Real Madrid, với 216 bàn trong 285 trận ở giải nội địa từ giai đoạn 1953 đến 1964. Tháng 11 năm 2003, để chúc mừng lễ kỉ niệm 100 năm của FIFA, Di Stéfano đã được Liên đoàn bóng đá hoàng gia Tây Ban Nha chọn là cầu thủ vàng của bóng đá Tây Ban Nha, cầu thủ nổi bật nhất của bóng đá nước này 50 năm qua. Ông được Pelé chọn vào danh sách 125 huyền thoại sống của bóng đá thế giới tháng 3 năm 2004. Ngoài ra, ông còn đứng ở vị trí thứ 4 bên cạnh Pelé, Diego Maradona, Johan Cruijff trong cuộc bầu chọn bởi các danh thủ từng đoạt quả bóng vàng châu Âu được tổ chức bởi tạp chí bóng đá hàng tuần của Pháp France Football để chọn ra cầu thủ của thế kỉ. Ông đã trao cho Ronaldo chiếc áo số 9 ở Real Madird C.F. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 2014 tại thành phố Madrid, Tây Ban Nha. Vì mắc bệnh tim.

    Alfredo Di Stéfano
    Alfredo Di Stéfano
    Alfredo Di Stéfano
    Alfredo Di Stéfano
  9. Joseph Kevin Keegan sinh 14 tháng 2 năm 1951 tại Armthorpe, Doncaster, Anh - là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên người Anh,người được coi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất của bóng đá Anh. Ông cũng là cầu thủ Anh duy nhất từng hai lần giành Quả Bóng Vàng trong những năm 1978 và 1979 khi thi đấu cho Liverpool F.C. và Hamburg. Ông được Pelé vinh danh trong FIFA 100. Keegan bắt đầu sự nghiệp thi đấu của mình tại Scunthorpe United vào năm 1968, trước khi chuyển đến Liverpool vào năm 1971. Trong thời gian ở Liverpool, anh đã giành được ba chức vô địch Hạng nhất Anh, UEFA Cup hai lần, FA Cup và European Cup. Keegan cũng có lần đầu tiên khoác áo đội tuyển Anh vào năm 1972 và chuyển đến câu lạc bộ Hamburger SV của Tây Đức vào mùa hè năm 1977. Tại Hamburg, anh được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu vào năm 1978 và 1979, giành chức vô địch Bundesliga 1978 - 1979, và lọt vào Chung kết Cúp C1 châu Âu năm 1980.


    Keegan chuyển đến Southampton vào mùa hè năm đó và trải qua hai mùa giải ở câu lạc bộ trước khi chuyển đến Newcastle United ở giải hạng hai Anhnăm 1982. Anh giúp Newcastle thăng hạng trong mùa giải thứ hai, và từ giã sự nghiệp bóng đá năm 1984, khoác áo đội tuyển Anh 63 lần, ghi được 21 bàn thắng. Keegan chuyển đến quản lý tại Newcastle vào năm 1992, giành quyền thăng hạng với tư cách là nhà vô địch giải hạng Nhất. Newcastle sau đó đứng thứ hai tại Premier League trong mùa giải 1995–96, sau khi dẫn đầu trong phần lớn thời gian của mùa giải. Sau khoảng thời gian thi đấu cho Fulham, ông dẫn dắt đội tuyển Anh vào tháng 2 năm 1999, nhưng từ chức vào tháng 10 năm 2000, sau trận thua 0-0 trước Đức ở vòng loại FIFA World Cup 2002 . Sau đó, ông trở thành huấn luyện viên của Manchester City vào năm 2001 và có bốn năm làm việc tại câu lạc bộ trước khi từ chức vào năm 2005. Keegan đã nghỉ thi đấu gần ba năm khi ông trở lại Newcastle United trong lần thứ hai với tư cách là huấn luyện viên vào tháng 1 năm 2008.


    Kevin Keegan
    Kevin Keegan
    Kevin Keegan
    Kevin Keegan
  10. Karl-Heinz Rummenigge sinh ngày 25 tháng 9 năm 1955, là một giám đốc điều hành bóng đá và cựu cầu thủ chuyên nghiệp người Đức. Ông là Chủ tịch Hội đồng Điều hành lâu năm của FC Bayern München AG, một công ty con của đội bóng Bundesliga Đức Bayern Munich. Khi còn là cầu thủ, Rummenigge đã có thành công lớn nhất trong sự nghiệp với Bayern Munich, nơi anh giành được Cúp Liên lục địa, hai Cúp châu Âu, cũng như hai chức vô địch quốc gia và hai cúp quốc nội. Anh cũng hai lần được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu, hai lần giành Quả bóng vàng vào các năm 1980 và 1981. Là thành viên của đội tuyển quốc gia Tây Đức, Rummenigge đã giành chức vô địch châu Âu năm 1980 và là một phần của đội đã về nhì tại FIFA World Cup 1982 và tại World Cup 1986. Rummenigge là cựu chủ tịch của Hiệp hội các câu lạc bộ châu Âu, giữc hức vụ đó từ năm 2008 đến năm 2017.


    Karl-Heinz Rummenigge
    gia nhập Bayern Munich vào năm 1974, đến từ đội bóng nghiệp dư của Westphalia, Borussia Lippstadt, với mức phí chuyển nhượng là ca. 10.000 €. Anh ấy ngay lập tức thể hiện sức mạnh tuyệt vời như một người rê bóng. Phẩm chất ghi bàn của anh ấy ban đầu không đáng kể, nhưng sẽ được cải thiện rất nhiều trong những năm sau đó, đặc biệt là sau sự xuất hiện của huấn luyện viên Pal Csernai vào năm 1979. Năm 1979 - 1980, anh ấy ghi được 26 bàn thắng và lần đầu tiên trở thành tiền đạo hàng đầu Bundesliga, kỳ tích được anh lặp lại vào các năm 1981 và 1984 với lần lượt 29 và 26 bàn thắng. Với Bayern, ông đã giành được cúp châu Âu vào các năm 1975 và 1976. Năm 1975 , anh không tham dự trận chung kết của cuộc thi, trong khi vào năm sau đó, một ly rượu mạnh đủ chuẩn bị khiến Rummenigge thần kinh góp phần vào trận thua AS Saint-Étienne . Cùng năm đó, anh cũng trở thành một phần của đội giành chiến thắng trong trận chung kết Cúp Liên lục địa với Cruzeiro EC từ Belo Horizonte.
    Karl-Heinz Rummenigge
    Karl-Heinz Rummenigge
    Karl-Heinz Rummenigge
    Karl-Heinz Rummenigge



Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy