Top 15 Loài động vật có bộ lông đẹp nhất thế giới

Vũ Việt 4599 0 Báo lỗi

Trong thế giới động vật, bộ lông có rất nhiều tác dụng khác nhau như giữ ấm, làm đẹp, đe dọa kẻ thù,...trong số đó nổi lên một số loài có vẻ đẹp cực kỳ quyến ... xem thêm...

  1. Cái tên miêu tả chính xác ngoại hình của chú chó này. Apso có nghĩa là lông, chó Lhasa Apso mang một bộ lông dài đặc trưng, được phát hiện ở vùng núi Himalaya cách đây 800 năm TCN. Trước kia, giống chó này được dùng để canh gác hoàng cung, các đền thờ ở thành phố Lhasa. Người ta tin rằng đây là loài vật đem lại may mắn cho chủ nhân. Khi chủ nhân chết đi thì linh hồn của người đó sẽ nhập vào cơ thể chú chó. Bởi vậy, Lhasa Apso được người dân Tây Tạng coi như “thánh thần”. Sau này, nó thường được người trị vì Tây Tạng – đức Dalai Lama triển lãm hoặc cống hiến như một thứ báu vật linh thiêng tại các chuyến ngoại giao đến Trung Hoa, Anh, Mỹ...Đến những năm 30 của thế kỉ XIX, Lhasa Apso mới khẳng định được vị trí của mình, trở thành giống chó được yêu thích nhất xuất xứ Tây Tạng..


    Đặc điểm nổi bật nhất chính là bộ lông kép, rậm thẳng và dài rủ xuống, bao phủ toàn thể cơ thể. Trông chúng không khác gì một cục bông di động, vô cùng đáng yêu. Màu sắc lông rất đa dạng, từ những màu phổ biến như: Vàng, kem, mật ong cho đến xám đen, xám khói, hoặc sự mix màu đẹp tự nhiên: Nâu, đen đá, trắng,…đều rất xinh đẹp. Với bộ lông “đồ sộ” như vậy, chắc chắn đòi hỏi chủ nhân cần chải gỡ cẩn thận tránh rối, chú ý cắt tỉa lông ngắn để dễ dàng chăm sóc.

    Chúng có cái đầu tròn ngộ nghĩnh với đôi mắt nhỏ đen láy hình oval, tối, sâu thấp thoáng sau đôi tai luôn rủ xuống. Hàm răng khá đều. Bốn chân ngắn, thẳng nhưng phủ trên đó là lớp lông rậm rạp. Bàn chân tròn nhìn rất giống bàn chân một chú mèo. Cái đuôi xoắn phía cuối và lúc nào cũng cuộn qua lưng. Với bản tính thông minh, thân thiện, năng động, Chó Lhasa Apso là sự lựa chọn không tồi nếu bạn đang cân nhắc mua một vật cưng để bầu bạn. Loài chó này rất tình cảm với chủ nhân, biết vâng lời, ngoan ngoãn tiếp thu các huấn luyện. Chúng trông nhà giỏi, nhưng tỏ ra không thân thiện với người ngoài và trẻ nhỏ.

    Chó Lhasa Apso
    Chó Lhasa Apso
    Chó Lhasa Apso
    Chó Lhasa Apso

  2. Bò cao nguyên có sừng dài và áo khoác dài lượn sóng màu đen, lốm đốm, màu đỏ, màu vàng và thường chủ yếu nuôi để lấy thịt. Có nguồn gốc từ Cao Nguyên và Tây Isles của Scotland và đã được đề cập đầu tiên trong thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên. Có hai loại riêng biệt của bò này đã được mô tả đầu tiên trong cuốn sách năm 1885. Một là giống bò Kyloe có nguồn gốc từ các đảo có điều kiện khắc nghiệt hơn. Những gia súc có xu hướng để có bộ lông màu đen thường xuyên hơn và nhỏ hơn với mái tóc dài hơn, do điều kiện gồ ghề hơn về mặt địa hình. Một loại khác là sống trên đất liền. Những xu hướng lớn hơn, vì đồng cỏ của chúng giàu chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, ngày nay các loại đã được lai như vậy là không có sự khác biệt rõ rệt và cả hai đều được coi là bò cao nguyên.

    Chúng là một giống bò khỏe do môi trường bản địa của nó, Một con bò mộng có thể nặng tới 800 kg, bò cái nặng lên đến 500 kg. Sữa của chúng thường có hàm lượng mỡ bơ rất cao. Thịt được coi là một trong những chất lượng cao nhất và đang được xu hướng chấp nhận vì nó là rất ít cholesterol. Bò đực trưởng thành có thể nặng tới 800 kg (1.800 pound) và bò cái có thể nặng tới 500 kg (1.100 pound). Bò còn có tuổi thọ lâu hơn dự kiến so với hầu hết các giống khác của gia súc, lên đến 20 năm. Nó là giống chuẩn bò đực phải có sừng. Những con bò có truyền thống được sử dụng như bò nhà là họ có một tính khí ngoan ngoãn và sữa có hàm lượng mỡ bơ cao.

    Tóc của chúng được xem là dài nhất của bất kỳ giống gia súc và giúp bảo vệ chúng trong mùa đông lạnh. Kỹ năng của chúng trong việc tìm kiếm thức ăn cho phép chúng tồn tại trong khu vực núi dốc đứng, nơi cả hai đều ăn cỏ và ăn thực vật có nhiều gia súc khác tránh. Chúng có thể khai thác nguồn thức ăn thông qua tuyết với sừng của chúng để tìm cây bị chôn vùi. Bò cao nguyên được biết là có một lịch sử mà ngày trở lại ít nhất là vào thế kỷ thứ 6, trong khi các bằng chứng bằng văn bản đầu tiên ngày trở lại vào thế kỷ 12.

    Bò cao nguyên Scotland
    Bò cao nguyên Scotland
    Bò cao nguyên Scotland
    Bò cao nguyên Scotland
  3. Komondor là một giống chó truyền thống lâu đời và được xem là một báu vật quốc gia của Hungary. Tuy bề ngoài giống như chó lông xù hiền lành, nhưng thực sự chúng là giống chó dữ, dùng để cảnh giới và bảo vệ tài sản hiệu quả. Điểm đặc biệt của những con chó Komondor là bộ lông bùi nhùi khủng khiếp chúng phải khoác trên người, vì vậy chúng còn có tên là “chó giẻ lau”.

    Theo sử sách Hungary còn ghi lại. Komondor được người Cumans đưa vào Châu Âu vào khoảng năm 1544. Tên Komodor xuất phát từ “Koman – dor”, có nghĩa là “Cuman dog” – Chó của người Cuman, được lai giữa giống chó chăn cừu của người Tây Tạng và giống chó địa phương của người Cuman, quê hương là vùng đất tại lưu vực sông Hoàng Hà. Vào cuối những năm 900, người Mông Cổ bắt đầu mở rộng lãnh thổ của họ đến nơi sinh sống của người Cuman, buộc họ phải bỏ chạy về phía Tây đến gần biên giới Hungary ngày nay vào những năm 1100 và được cấp quyền cư ngụ tại đây vào năm 1239, dưới triều đại của Koten Khan. Komondor có chiều cao khoảng từ 65cm đến 90 cm, đầu to, mõm ngắn, mũi đen, nặng trung bình 50, 60kg. Đặc trưng của giống chó này là bộ lông trắng tinh, dài khoảng 20 đến 27 cm và rất dày. Những con chó trưởng thành sẽ có bộ lông được kết thành từng tua tự nhiên mềm và mịn như một chiếc áo khoác và có khi nặng đến 30kg. Người ta cho rằng, bộ lông này phát triển theo luật sinh tồn trải qua nhiều năm, có tác dụng như một chiếc áo giáp giúp chúng bảo vệ thân thể trước những cú táp tấn công của bầy chó sói. Thực tế, hàm răng sắc nhọn của loài sói chưa bao giờ có thể xuyên qua được lớp lông.

    Tính khí của giống chó Komondor cũng giống như các loài chó bảo vệ khác, đó là điềm tĩnh và ổn định, trong trường hợp bị đe dọa, nó không hề nao núng và quyết liệt bảo vệ mục tiêu được giao. Đó là một giống chó lai hoàn hảo trong tính cách suy nghĩ và hành động quyết đoán. Cũng giống như giống chó Phú Quốc của việt Nam, Komondor rất thân thiện với người nhà và trẻ em nhưng rất cảnh giác với người lạ, chúng chỉ chấp nhận người lạ sau khi chắc chắn rằng họ không làm tổn hại đến gia đình chủ nhân hoặc xâm phạm mục tiêu bảo vệ của nó. Mang bản năng của một giống chó bảo vệ, chúng thường nghĩ ngơi vào ban ngày, và di chuyển tuần tra liên tục vào ban đêm, sẵn sàng hạ mục tiêu xâm nhập, đây không phải là giống chó để những kẻ trộm và kẻ trêu chọc có thể đùa được.

    Chó Komondor
    Chó Komondor
    Chó Komondor
    Chó Komondor
  4. Là một trong những giống mèo lớn nhất thế giới, mèo rừng Na Uy gây ấn tượng mạnh với ngoại hình độc đáo ngay từ cái nhìn đầu tiên. Với bộ lông ấm áp và tính cách thân thiện, chúng là những thú cưng hoàn hảo cho mọi gia đình. Mèo rừng Na Uy là giống mèo chính thức của đất nước Na Uy. Chúng đã có mặt tại đây từ hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm về trước. Một số người cho rằng các thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ đã đem những chú mèo yêu thích của họ lên phía Bắc khi tham gia giao dịch buôn bán. Trong khi đó, một số người khác lại tin rằng, giống mèo này là “chiến lợi phẩm” mà người Na Uy mang về trong các cuộc Thập tự chinh.

    Bước ra khỏi thế giới thần thoại, giống mèo này ở thế giới thực cũng quý hiếm và đặc biệt không kém. Sau khi được trưng bày tại một triển lãm mèo vào năm 1938, chúng đã nhanh chóng thu hút được rất nhiều sự chú ý. Câu lạc bộ mèo rừng Na Uy đã được thành lập để bảo tồn giống mèo này. Thật không may, Thế chiến thứ II đã suýt làm tuyệt chủng mèo rừng Na Uy trong chiến tranh. Tuy nhiên, hoạt động của câu lạc bộ đã một lần nữa cứu sống và khôi phục chúng. Vào năm 1977, mèo rừng Na Uy đã được đăng ký giống với Fédération Internationale Féline Châu Âu (FIFe).


    Mèo rừng Na Uy là giống mèo hiền lành và thân thiện. Chúng thích ở chung với các thành viên trong gia đình, nhưng không đòi hỏi sự quan tâm và vuốt ve liên tục. Chúng cũng là những chú mèo thông minh, độc lập, học hỏi nhanh và có bản tính cảnh giác. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những chú mèo này lại có khả năng leo trèo rất giỏi. Bạn sẽ thường thấy chúng thoải mái ở những kệ tủ cao nhất trong ngôi nhà. Đặc biệt, do có nguồn gốc hoang dã, nên những chú mèo này rất thích lại gần những bể cá để kiếm ăn. Do đó, bạn cần lưu ý bảo vệ những chú cá cảnh của mình khỏi những bé mèo to lớn này nhé.

    Mèo rừng Na Uy
    Mèo rừng Na Uy
    Mèo rừng Na Uy
    Mèo rừng Na Uy
  5. Đây là giống ngựa nhỏ có lông ở chân, chúng nổi tiếng là loài vật nhẹ nhàng, tự nhiên, và dễ thuần phục. Chúng có lông và bờm mao dài từ dưới đầu gối của chân trước và chân sau chạy xuống chân chảy trên mặt trước và sau của móng guốc, lông của chúng có nhiều màu sắc khác nhau rất đa dạng trong đó chủ yếu là hai màu đen và trắng. Ngựa Gypsy có dáng đặc biệt dễ quản lý, háo hức để làm hài lòng, nhanh nhẹn và dũng cảm. Con ngựa Gypsy thông thường, nhưng không phải luôn luôn nhiều màu sắc. Nó cũng có thể là sắc trắng và hồng hoặc bất kỳ màu sắc rắn, một con ngựa rắn màu với bắn tung tóe trắng trên bụng được gọi là "Blagdon". Không có yêu cầu màu lông trong tiêu chuẩn giống của Irish Cob Society, Gypsy Vanner Horse Society, Gypsy Horse Registry của Mỹ, hoặc Australasian Gypsy Horse. Kể từ khi con ngựa bắt nguồn từ nước Anh.

    Lông và bờm mao dài bắt đầu từ dưới đầu gối của chân trước và chân sau của hai chân sau và chạy xuống chân chảy trên mặt trước và sau của móng guốc, là một thuộc tính có giá trị cao của Gypsy Horse, tóc thẳng mượt và lông là mong muốn, dù hơi thô và thậm chí cả mái tóc lượn sóng và lông được phép, lông không phải là một nhu cầu đăng ký với Cob Society Ireland, trong đó, tuy nhiên, xem xét lông một "tính năng đặc trưng và trang trí của giống Cob Irish".

    Cổ chân và móng góc độ của chân sau có nhiều dọc hơn chân trước, thường là trên 50 độ móng guốc tròn và có gót rộng. Hai chân sau của ngựa Gypsy gập góc thích hợp cho một con ngựa kéo. Con ngựa Gypsy có dáng đặc biệt. Gypsy phải là một "mạnh mẽ, thông minh mà làm việc tự nguyện và hòa hợp với việc điều khiển của nó. Chúng cũng được mô tả là lễ phép và quản lý được, háo hức để làm hài lòng, tự tin, dũng cảm, cảnh giác và trung thành.

    Ngựa Gypsy
    Ngựa Gypsy
    Ngựa Gypsy
    Ngựa Gypsy
  6. Đây là một giống cừu nhà có nguồn gốc từ vùng Hungary, chúng là một giống cừu được biết đến với cái sừng xoắn ốc khác thường của nó. Những phụ độc đáo không giống bất cứ sừng cừu nhà nào khác. Cừu Racka đã tồn tại ít nhất là từ năm 1800, khi đăng ký lần đầu tiên được thiết lập, là giống duy nhất với cả hai giới có sừng hình xoắn ốc dài. Đó là một giống vật nuôi nhiệt huyết, đa mục đích, giống này dùng cho vắt sữa, len và thịt cừu, len của chúng là dài và thô, và xuất hiện trong hai loại thường thấy.

    Có hai mô hình màu lớn với cừu Racka. Các màu phổ biến nhất là len màu nâu bao gồm đầu và chân với chất xơ khác nhau về màu sắc từ nâu đậm đến nâu nhạt và trắng. Các cá thể cũng có thể màu đen. Những lông cừu màu đen, màu mất dần một màu đen đỏ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và khi chúng lớn lên, các điểm của sợi chuyển sang màu xám. Đường kính sợi khác nhau trong giống này và thường được tìm thấy là 12 - 40 micromet với sản lượng 38% đến 65% chiều dài Staple là khoảng 30 cm (12 in). Trọng lượng lông cừu phải có ít nhất 3 kg (6.6 lb) cho con cừu đực, có sự mềm mại và uốn của len.

    Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt. Mô mỡ dưới da của chúng phát triển tốt hơn dê và ngược lại ở các cơ bên trong của chúng có ít tích lũy mỡ hơn dê.

    Cừu Racka
    Cừu Racka
    Cừu Racka
    Cừu Racka
  7. Gà Silkie hay còn được gọi là gà lông lụa, hiện là một trong những giống gà kiểng được yêu thích nhất hiện nay. Nhờ sở hữu bộ lông xù mịn vô cùng độc đáo, những chú Silkie này luôn khơi gợi được sự hứng thú của những tay chơi gà đẳng cấp, gà lông lụa có nguồn gốc từ “đất nước tỷ dân’’ Trung Quốc. Chúng có thể xuất hiện vào thời nhà Hán năm 206 trước Công nguyên và được đưa đến phương Tây vào khoảng 200 năm trước. Tên tiếng Trung của Silkie là “wu-gu-ji’’, có nghĩa là xương đen, cũng là đặc điểm của giống gà này. Mặc dù có rất nhiều bằng chứng và tài liệu cho thấy mối liên hệ giữa gà lông lụa và Trung Quốc. Nhưng vẫn chưa có sự xác thực chắc chắn nào cho câu hỏi gà lông lụa có phải có nguồn gốc từ đất nước tỷ dân hay không.

    Vào khoảng năm 1290 – 1300, gà lông lụa được đề cập lần đầu tiên bởi Marco Polo. Ông đã giới thiệu giống gà này trên tạp chí với tên là một con gà lông xù trong hành trình khắp châu Âu và Viễn Đông của mình. Sau đó không lâu, giống gà này nhanh chóng phổ biến khắp phương Tây và trở thành giống gà kiểng nổi tiếng như hiện nay.Điều đặc biệt tạo nên sức hút cho giống gà Silkie chính là bộ lông xù mềm như lụa, phủ toàn thân kể cả đầu. Gà lông lụa có dái tai màu xanh ngọc hình bầu dục và yếm thịt màu tối. Mỏ ngắn và có màu xám. Mắt có màu đen. Gà lông lụa có lưng ngắn. Chân ngắn, to và có màu xám. Chúng có 5 ngón chân thay vì 4 như các giống gà khác.

    Gà Silkie
    có da và xương màu đen. Chính điều khác biệt này làm cho chúng trở thành món ăn ngon ở các vùng Viễn Đông. Thịt gà lông lụa cũng được sử dụng trong y học Trung Quốc. Vì nó chứa gấp đôi lượng Carnitine (một chất chống lão hóa) so với các loại thịt gà khác. Ngoài việc có ngoại hình xinh xắn, thì bản tính ngoan ngoãn cũng là lý do khiến gà lông lụa được nhiều người yêu thích. Những chú gà Silkie thường rất điềm tĩnh và thân thiện, kể cả gà trống. Nhiều người nuôi gà lông lụa còn nói rằng, giống gà này rất quấn người. Chúng thích nằm trong lòng bạn và được vuốt ve. Nhờ bản tính thiện lành nên gà lông lụa được nhiều người chọn nuôi để làm cảnh. Nhưng cũng vì chúng quá hiền nên bạn cần để mắt đến chúng thường xuyên hơn. Tránh trường hợp gà bị các loài vật khác tấn công.

    Gà lông xù Silkie
    Gà lông xù Silkie
    Gà lông xù Silkie
    Gà lông xù Silkie
  8. Cừu mũi đen có nguồn gốc từ Thụy Sĩ là loài cừu hiếm, được xếp vào nhóm di sản, với bộ lông có hai màu đen trắng xen kẽ, trong đó phần lông đen che kín toàn bộ khuôn mặt. Với vẻ ngoài vô cùng đáng yêu và thu hút của mình, cừu mũi đen Valais lập tức gây được sự chú ý và trở thành ngôi sao động vật trong khu vực, trở thành giống cừu được những người nông dân yêu thích. Nổi tiếng là loài cừu đáng yêu nhất thế giới, cừu mũi đen Valais là giống cừu quý hiếm của Thụy Sĩ, trước đây chúng được xem là “di sản” cũng bởi con người chỉ có thể bắt gặp chúng ở Valais và vùng cao nguyên ở Thụy Sĩ.


    Là loài cừu hiếm, được xếp vào nhóm di sản, với bộ lông có hai màu đen trắng xen kẽ, trong đó phần lông đen che kín toàn bộ khuôn mặt. Điểm khác biệt của loài cừu này đó là phần lông có hai màu đen trắng xen kẽ, nổi bật là phần lông đen là mặt, tai, chân. Đây cũng là đặc điểm để gọi tên loài cừu này và khiến nhiều người nhầm tưởng vẻ bề ngoài của chúng như những con thú bông. Lông cừu là loại sợi lông động vật được sử dụng rộng rãi để sản xuất len. Phần lông trắng dài, mềm và xoắn lọn như những sợi dây thừng của cừu mũi đen là nguồn cung cấp khoảng 4 kg len mỗi năm.


    Đây là loài cừu núi có thể sống trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt ở các vùng núi cao, sườn đồi, dốc núi. Loài cừu này thường được chăn thả dọc theo các sườn núi cao dọc theo dãy Pennine, nằm giữa biên giới hai nước Thụy Sĩ và Italy. Cũng giống như những con cừu khác, cừu mũi đen cũng được nuôi để lấy lông và lấy thịt. Mỗi con cừu đực nặng trung bình từ 80 – 130 kg, cừu cái nặng từ 70 – 90 kg. Cả cừu đực và cừu cái đều có sừng. Chúng có tính bầy đàn cao nên dễ quản lý, chúng thường đi kiếm ăn theo đàn nên việc chăm sóc và quản lý rất thuận lợi.


    Chúng cũng là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc. So với chăn nuôi bò thì chúng là vật nuôi dễ tính hơn, thức ăn của chúng rất đa dạng, thức ăn của chúng là những loại không cạnh tranh với lương thực của người. Chúng là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ. Hầu hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác, tránh các phần thực vật có gỗ nhiều. Chúng có chế độ hoạt động ban ngày, ăn từ sáng đến tối, thỉnh thoảng dừng lại để nghỉ ngơi và nhai lại. Đồng cỏ lý tưởng cho chúng như cỏ và cây họ Đậu. Khác với thức ăn gia súc, thức ăn chính của chúng trong mùa đông là cỏ khô.

    Cừu mũi đen Valais
    Cừu mũi đen Valais
    Cừu mũi đen Valais
    Cừu mũi đen Valais
  9. Gà Ba Lan là giống gà có nguồn gốc từ Hà Lan và chủ yếu phân bố ở một số quốc gia châu Âu. Vì có lông đầu rất đẹp nên giống gà này thường được nuôi làm cảnh. Gà Ba Lan nặng từ 1,8-2kg. Giống gà này có nguồn gốc từ miền Trung Hà Lan. Điểm đáng chú ý của gà Ba Lan là có chùm lông lớn trên đầu. Tuy nhiên, chính chùm lông này lại hạn chế tầm nhìn của chúng. Nếu nghĩ rằng các nhà khoa học biết hết xuất xứ của các loại gà thì bạn đã nhầm, vì với họ, gà Ba Lan vẫn là một giống gà chưa tỏ ngọn nguồn.


    Theo đa số các nhà sinh vật học nói chung và điểu học nói riêng, gà Ba Lan có thể xuất xừ từ Đông Âu xưa, ít nhất là vài nghìn năm. Nhưng tại sao loài gà này có màu lông và dung nhan kỳ lạ thì không ai rõ. Rất có thể do tự nhiên mà cũng có thể do những cuộc lai tạo cố ý từ con người. Điều này cũng y như cái đuôi dài thậm thượt của gà Nhật Bản từng làm đau đầu giới điểu học. Gà Ba Lan cũng có nơi chỉ gọi là polish, là một loại gà cảnh chứ không phải gà thịt hay gà đẻ trứng, dù theo nhiều tư liệu khoa học thì trước kia, người ta cũng xem nó là gà công nghiệp thật sự. Tại một số khu vực nông thôn của Ba Lan, Hungary hay Cộng hoà Séc, người ta chỉ xem gà Ba Lan là gà chọi trong những dịp lễ đầu xuân hay nuôi làm cảnh. Năm 1999, khi kỹ thuật lai tạo gia cầm tiến một bước xa, giống gà Ba Lan lông xanh ra đời, đẩy số câu lạc bộ gà này lên rất cao. Tại Mỹ có hơn 200 câu lạc bộ chuyên nuôi gà "đầu xù" và thường xuyên tham dự những cuộc thi gà đẹp hằng năm tại Texas. Người Mỹ từng sử dụng kỹ thuật ghép gene để tạo những con gà Ba Lan ngũ sắc hay có mào rất dài, hoặc có bộ lông vàng óng. Tuy nhiên, nét đẹp lạ lùng của giống gà này lại nằm ở chùm lông trên đầu chứ không phải màu lông.

    Gà Ba Lan
    thường khá nhút nhát và dễ dàng sợ hãi. Nó được nuôi làm cảnh, lấy trứng hoặc lấy thịt. Màu lông của giống gà này thường khá đa dạng từ đen, trắng, xám, đỏ tía…Một ngày, gà Ba Lan mái có thể để từ 1 - 2 trứng. Ở lứa sinh sản đầu tiên, trứng của chúng tương đối nhỏ. Sang lứa thứ 2 trứng bắt đầu lớn hơn.

    Gà Ba Lan
    Gà Ba Lan
    Gà Ba Lan
    Gà Ba Lan
  10. Công Ấn Độ có bộ lông rực rỡ mọc ra từ lưng của mình, phần lông này có chiều dài khoảng 1.5 mét – thậm chí còn dài hơn cả thân chim. Khi muốn khoe vẻ đẹp của mình, đầu tiên chúng nâng phần lông đuôi ngắn cũn phía trong trước, sau đó mới đến phần lông dài hơn và xòe ra thành hình cánh quạt. Lông đuôi của công bắt đầu mọc ra từ năm 2 tuổi nhưng phải đến 2 năm sau mới được phát triển hoàn thiện. Ngoài ra, lông chim còn có thể rụng và bay khắp nơi quanh năm. Khác với các cá thể đực chỉ có cái lưng màu nâu cùng chiếc bụng trắng thì chim cái có nhiều màu sắc hơn tuy lông của chúng không dài bằng bạn tình. Cả hai giống đều có chỏm lông trên đỉnh đầu và phần cổ mang sắc xanh đầu và cơ thể của công có chiều dài khoảng 1 mét.

    Loài công này có nguồn gốc từ đất nước của những tôn giáo linh thiêng – Ấn Độ, Sri Lanka và tập trung ở Nam Á. Ở các quốc gia khác, chúng cũng được nuôi và giới thiệu trong những triển lãm, công viên, vườn thú, bảo tàng tự nhiên hoặc làm vật nuôi trong nhà. Công là một loài vật theo chủ nghĩa “đa thê“, tức là một con công đực có thể giao phối với nhiều con cái khác. Hơn nữa, công cái cũng không thích “đánh dấu chủ quyền” bạn tình của mình. Con đực xòe rộng cái đuôi của mình và mời con cái thức ăn như một cách để tán tỉnh bạn tình. Mùa giao phối của công khác nhau tùy theo nơi chúng sinh sống. Ở miền Nam Ấn Độ thì là từ tháng Tư đến tháng Năm, ở Sri Lanka là tháng Giêng đến tháng Ba, còn tới miền Bắc Ấn Độ thì lại vào tháng Sáu.


    Thông thường, công cái là giống duy nhất thực hiện việc ấp trứng. Tuy nhiên, cũng có trường hợp từng ghi nhận là giống đực ấp trứng. Sau khoảng 28 ngày sau, những con non nở ra và theo chân mẹ đi khắp nơi. Đôi khi, công mẹ còn để đám con của mình nằm trên lưng và cùng bay đến một cành cây vững chắc nào đó.

    Công Ấn Độ
    Công Ấn Độ
    Công Ấn Độ
    Công Ấn Độ
  11. Tên khoa học là Pharomachrus mocinno, còn gọi là chim Quetzal. Thời xưa ở Trung Mỹ, chỉ có thầy tu và những người thuộc tầng lớp trên mới được đeo lông của loại chim này. Bất kỳ thường dân nào bị phát hiện có cất giấu những cái lông này đều bị mang ra giết chết. Với nền văn hóa Maya xưa, lông chim đuôi seo rất quý, giá trị hơn cả vàng. Hễ ai giết một con chim đuôi seo sẽ bị tội tử hình.


    Cả người Maya lẫn người Aztec đều thờ cúng chim thiêng quetzal. Đối với họ, loại chim này có mối quan hệ gần gũi với thần rắn Quetzalcoatl. Chim đuôi seo rất sợ sự giam cầm. Chúng thà tự kết liễu đời mình còn hơn bị nhốt trong lồng hay xiềng xích. Vì thế, chúng trở thành biểu tượng của Guatemala, một quốc gia thuộc Trung Mỹ và cũng là hiện thân của một vị thần hùng mạnh trong thần thoại Maya cổ. Đến thời thực dân, chim đuôi seo trở thành biểu tượng của sự tự do, nó trở thành quốc huy của nước Guatemala. Tên của loại chim này cũng được dùng để đặt cho đồng tiền (đồng tiền quetzal của Guatemala).


    Sở dĩ loại chim này có vẻ linh thiêng như vậy là vì dáng hình hết sức đặt biệt của chúng. Bộ lông của chúng có màu sắc sặc sỡ, nổi bật lên là 2 màu: Xanh lá cây và đỏ. Chim trống rất đẹp: Mỏ ngắn, màu vàng, có những cái lông dài phủ trên đuôi, hợp lại thành hình chữ V. Những cái lông màu xanh đặc biệt đó có thể dài đến 105m, chúng đạt đến chiều dài tối đa khi chim đuôi seo được 3 năm tuổi, chim đuôi seo trưởng thành có thân mình dài khoảng 35cm. Trong khi đó, chim mái lại có mỏ đen, không có lông dài phủ trên đuôi, bộ lông cũng có màu tối hơn với hai màu xanh lá và nâu. Loại chim đặc biệt này phân bố suốt từ Nam Mexico đến Panama. Khách du lịch đến đây rất thích được ngắm nhìn vẻ đẹp lạ lùng của loại chim kỳ diệu này, hiện chúng được luật pháp bảo vệ ở Mexico, Guatemala, Costa Rica và Panama.

    Chim đuôi seo
    Chim đuôi seo
    Chim đuôi seo
    Chim đuôi seo
  12. Lạc đà Alpaca (hay lạc đà cừu) là giống lạc đà không chỉ có giá trị về mặt kinh tế mà chúng còn sở hữu giá trị thẩm mỹ cao. Vì vậy, tại một số quốc gia trong đó có Việt Nam, Lạc đà Alpaca còn được nuôi để làm cảnh phục vụ những người yêu thích động vật thăm quan và chiêm ngưỡng. Lạc đà Alpaca có xuất xứ tại Nam Mỹ. Người dân Nam Mỹ rất ưa chuộng giống lạc đà này. Chúng cho giá trị kinh tế cao bởi sở hữu bộ lông mềm mịn và mượt như len. Bên cạnh đó, Alpaca còn được nuôi để lấy thịt làm thực phẩm. Ở Nam Mỹ, người dân rất ưa chuộng thịt của lạc đà Alpaca bởi loại thịt này là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Do vậy mà ngày nay giống lạc đà Alpaca đang có nguy cơ bị tuyệt chủng bởi hoạt động săn bắt trái phép của người dân.


    Lạc đà Alpaca
    cho vẻ đẹp nổi bật bởi bộ lông rất mềm mịn và ấm áp. Do bộ lông dày, đẹp rất giống với lông cừu nên một số nơi còn gọi chúng là lạc đà cừu. Những chú lạc đà Alpaca thường sở hữu bộ lông chỉ có duy nhất một màu. Tuy nhiên, với mỗi con lại có một màu lông khác nhau. Thông thường, khi nuôi lạc đà Alpaca người dân sẽ cắt lông của chúng vào mùa xuân. Mỗi lần cắt sẽ được khoảng từ 2.2kg đến 4.5kg lông đẹp. Tuy nhiên, nếu là Alpaca trưởng thành thì có thể có thể cho tới 1.4kg đến 2.5kg lông cao cấp. Loại lông này nếu dùng để làm áo khoác, làm khăn…sẽ rất đẹp, ấm và vô cùng sang trọng.


    Nếu bạn nuôi loài lạc đà Alpaca này để làm cảnh thì có thể thỏa sức sáng tạo và thể hiện gu thẩm mỹ bằng việc cắt tỉa lông theo những kiểu khác nhau. Chúng sẽ cho vẻ đẹp mà bạn mong muốn. Lạc đà Alpaca là loài vật sống theo phong cách bầy đàn và cũng rất dễ nuôi. Thức ăn chủ yếu là rơm rạ hoặc cỏ. Tuy nhiên chúng vẫn có thể sử dụng thêm một số các loại cây khác. Ngoài ra, bạn cũng nên cắt răng và móng cho chúng theo định kỳ.

    Lạc đà Alpaca
    Lạc đà Alpaca
    Lạc đà Alpaca
    Lạc đà Alpaca
  13. Samoyed là giống chó đến từ xứ lạnh – Taiga, vùng Tây Bắc Siberia. Trước kia, giống chó này được người dân tại nơi đây nuôi dưỡng để phục vụ cho việc săn bắt và kéo xe tuyết. Vào năm 1889, giống chó Samoyed được đưa tới Anh bởi một nhà thám hiểm – Robert Scott. Từ đây, chúng bắt đầu được nhân giống và bắt đầu trở nên phổ biến trên khắp thế giới. Đến cuối thế kỷ 19, nhà thám hiểm Robert Scott đã đưa một số về vương quốc Anh. Với vẻ trang nhã, thân thiện cùng bộ lông tuyệt đẹp và hợp thời trang. Samoyed đã trở thành một trong những giống chó phổ biến nhất trên toàn thế giới.


    Samoyed có kích thước lớn nhưng tính tình thì “hiền khô”. Tại quê hương Siberia, chúng có nhiệm vụ chính là kéo xe trượt tuyết. Bộ lông trắng tinh của Samoyed hoà vào những bông tuyết mịn đã trở thành hình ảnh thơ mộng đến không ngờ. Samoyed được mệnh danh là “công chúa tuyết” xứ Siberia. Bộ lông trắng mềm mại chính là điểm nổi bật nhất mà không một giống chó nào có được. Dù có cả màu vàng, kem và hơi hung vàng, tuy vậy màu trắng vẫn được ưa chuộng nhất.


    Samoyed có khả năng thấu hiểu được cảm xúc của con người thông qua nét mặt, cử chỉ hành động. Chúng luôn biết lắng nghe và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Vốn dĩ thông minh nên việc dạy dỗ và huấn luyện Samoyed rất đơn giản. Đây là loài chó rất tinh nghịch và hài hước. Chúng biết cách nũng nịu với chủ hệt như những đứa trẻ. Giống chó này thích vận động và luôn tràn đầy sức sống. Bạn có thể cùng chúng tham gia hoạt động ngoài trời với những trò chơi như: Ném bóng, đuổi bắt…Samoyed được biết đến là loài chó có “gương mặt cười”. Giống chó này rất thân thiện, gần gũi với con người, đặc biệt là trẻ em. Ngoài ra Samoyed rất trung thành, có xu hướng chỉ quyến luyến với duy nhất một người chủ.

    Chó Samoyed
    Chó Samoyed
    Chó Samoyed
    Chó Samoyed
  14. Loài thỏ Angora là loài loài thỏ có bộ lông xù nhất thế giới trông rất đáng yêu, là tổ tiên của loài thỏ sư tử, từng được nuôi phổ biến trong các gia đình hoàng gia quý tộc của Pháp.Tên gọi của loài thỏ Angora bắt nguồn từ thủ đô Ankara, trước đây được gọi là Angora của Thổ Nhĩ Kỳ. Thỏ Angora là tổ tiên của thỏ sư tử - một loài thỏ cảnh rất được yêu thích. Gây ấn tượng bởi bộ lông mềm, mượt và xù bông, loài thỏ Angora thường bị nhầm lẫn với một chiếc đệm bông đặc biệt. Mặc dù không nhỏ nhắn như các loài thỏ khác nhưng, thỏ Angora cũng đẹp và đáng yêu không kém. Song song cùng với mèo Angora, dê Angora thì thỏ Angora là một loài thỏ đã có từ lâu đời tại quốc gia này.


    Thỏ Angora cũng được chia ra thành nhiều loại khác nhau như Pháp, Đức, Khổng lồ, Anh, Lụa, Trung Quốc, Thụy Điển, Phần Lan... Trung bình, mỗi con thỏ Angora có thể sống từ 7 - 12 năm nếu được nuôi trong nhà và chăm sóc đầy đủ. Tuy nhiên, con số này có thể rút ngắn lại nếu để chúng ở ngoài trời. Cũng giống như bất kỳ thú nuôi trong nhà khác, thỏ Angora rất năng động, nghịch ngợm và quấn người. Chúng thích chơi đùa với những món đồ chơi như bóng nhựa, mẩu gỗ mềm, nón thông, găng tay hay tất cũ...Vào khoảng giữa thế kỷ 18, thỏ Angora được coi là thú cưng phổ biến của các gia đình dòng dõi hoàng gia ở Pháp. Sau đó, thú chơi này dần lan rộng ra khắp châu Âu vào cuối thế kỷ 18. Mãi đến khoảng đầu thế kỷ 20, thỏ Angora mới xuất hiện ở Mỹ.

    Thỏ Angora
    Thỏ Angora
    Thỏ Angora
    Thỏ Angora
  15. Khỉ sóc đầu trắng là một loài khỉ nhỏ chỉ nặng khoảng 0.5kg, chiều dài thân không tính phần đuôi khoảng từ 21-26cm, riêng cái đuôi có chiều dài khoảng từ 33 - 41cm. Cả khỉ đực và khỉ cái đều có vẻ bề ngoài giống nhau, hơn nữa ngay cả trọng lượng và kích thước cơ thể cũng gần như là bằng nhau. Khỉ sóc được phủ kín toàn thân bởi một lớp lông dày, ngoại trừ lòng bàn tay và bàn chân là không lông. Trên lưng bộ lông có màu nâu còn phần dưới cánh tay và chân có màu vàng trắng, mông và đùi bên trong cộng thêm cái đuôi có màu đỏ cam. Trên đầu bao gồm một chùm lông trắng mọc ngược ra sau và xoã xuống 2 vai. Mặt có màu đen với những sợi lông ngắn xám hoặc trắng mọc phía trên mắt kéo dài theo cạnh mặt xuống đến hàm. Răng nanh dưới mọc dài hơn các răng cửa.


    Đây là một trong những loài linh trưởng nhỏ nhất, chúng rất dễ dàng được nhận ra bởi khuôn mặt khác lạ và cái bờm trắng trên đầu dài xuống tới vai. Chúng được tìm thấy ở các khu vực rìa rừng nhiệt đới và rừng thứ sinh ở Tây Bắc Colombia, giữa sông Cauca và sông Magdalena về phía nam và đông, bờ biển Đại Tây Dương ở phía bắc và sông Atrato về phía tây. Ngoài ra chúng còn sinh sống ở Brazil, nhưng ở đây 2/3 môi trường sống gần như bị phá huỷ. Chúng sinh sống chủ yếu trên cây và kiếm ăn vào ban ngày, thức ăn chủ yếu của sóc khỉ là trái cây, côn trùng, động vật có xương sống nhỏ, mật hoa và đôi khi là các loài bò sát và loài lưỡng cư, trứng chim. Những con mồi sẽ bị nó dùng răng cắn vào đầu rồi mới ăn. Nó uống nước bằng cách liếm những hạt sương còn đọng trên lá thay vì nhảy xuống sàn rừng và đi tìm nguồn nước. Tuy nhiên vào những thời điểm lượng nước đọng trên lá không đủ, buộc chúng phải đi xuống và tìm kiếm nguồn nước.


    Khỉ sóc là những con vật phân tán các hạt giống tuyệt vời trong các hệ sinh thái nhiệt đới. Trong khi loài linh trưởng lớn ăn các hạt lớn, khỉ sóc ăn các hạt nhỏ hơn, hạt sau khi bị thải ra khỏi cơ thể có tỉ lệ nảy mầm cao hơn và việc ăn nhiều các hạt sẽ giúp cơ thể khỉ đẩy lùi các loài ký sinh đường ruột. Cả nhóm sẽ cùng nhau đi ngủ vào buổi chiều tối và cùng thức dậy đi kiếm ăn và lúc bình minh, chúng dành cả ngày để tìm kiếm thức ăn rồi nghỉ ngơi và chải chuốt.

    Khỉ sóc đầu trắng
    Khỉ sóc đầu trắng
    Khỉ sóc đầu trắng
    Khỉ sóc đầu trắng



Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy