Top 10 Ngôi sao võ thuật hàng đầu Trung Quốc

Vũ Việt 9358 0 Báo lỗi

Khi nhắc tới Trung Quốc là phải nhắc nền điện ảnh của nước này, với những bộ phim võ thuật kiếm hiệp được dàn dựng cực kỳ công phu và quy mô, với sự tham gia ... xem thêm...

  1. Chu Tỉ Lợi sinh ngày 14/01/1958. Sinh ra tại Calgary, Canada. Ông bắt đầu học Karatedo từ năm 11 tuổi trước khi chuyển sang học Muay Thái. Chu Tỉ Lợi được biết đến là một ông vua boxing kiêm diễn viên hành động nổi tiếng. Ông còn được mệnh danh là "Lão hổ" vì những cú đấm thép hiểm hóc. Trong bảng xếp hạng khả năng thực chiến của các ngôi sao võ thuật Trung Quốc, Chu Tỉ Lợi xếp vị trí đầu tiên, đứng trên cả Lý Tiểu Long. Nhiều người khi mới nhìn vào sẽ cảm thấy bất ngờ bởi cái tên Chu Tỉ Lợi thật sự còn xa lạ, ít được biết đến rộng rãi. Tuy nhiên, nhìn vào bảng thành tích của anh về cả lĩnh vực võ thuật lẫn phim ảnh thì chắc chắn sẽ bị thuyết phục hoàn toàn.


    Bắt đầu từ những năm 1980, Chu Tỉ Lợi bắt đầu rẽ sang con đường nghệ thuật với vai trò diễn viên và chỉ đạo võ thuật cho rất nhiều bộ phim hành động của Hong Kong. Năm 1985, ông lần đầu tiên được biết đến với vai trò diễn viên thông qua một vai khách mời trong bộ phim võ thuật Eastern Condor - Phi Ưng Phương Đông (được công chiếu vào năm 1987) của đạo diễn Hồng Kim Bảo. Mối lương duyên giữa Chu Tỉ Lợi và Hồng Kim Bảo cũng bắt đầu từ đây. Vị đạo diễn tài hoa liên tiếp mời ông tham gia các tác phẩm nổi tiếng như: Paper Marriage - Góa phụ tân nương (1988), Dragons Forever - Phi Long Mãnh Tướng (1988), phim kinh dị Her Vengeance - Máu hoa hồng đóng cùng Vương Tiểu Phượng và Lâm Chánh Anh, Pedicab Driver - Quần Long Hí Phụng (1989)… Ông đã góp mặt trong gần 100 bộ phim, và dù vào nghề khá muộn màng, khả năng diễn xuất của ông vẫn được đánh giá khá cao.

    Chu Tỉ Lợi
    Chu Tỉ Lợi
    Chu Tỉ Lợi

  2. Lý Tiểu Long sinh ngày 27/11/1940 tại San Francisco, là người Hoa gốc Mỹ, tên thật là Lý Chấn Phiên. Ông mất ngày 20/07/1973 giữa lúc sự nghiệp đang phát triển rực rỡ. Năm 1939, cha của Lý Tiểu Long là ông Lý Hải Tuyền dẫn theo vợ và 3 người con từ Hồng Kông sang khu phố người Hoa thuộc San Francisco để theo đoàn biểu diễn kịch nói tiếng Quảng Đông ở Mỹ. Năm 1940, Lý Tiểu Long sinh ra vào buổi sáng sớm và theo âm lịch Trung Quốc là năm Canh Thìn, cha mẹ ông đặt nhũ danh là "Tế Phượng", còn nghệ danh Lý Tiểu Long (Bruce Lee) bắt đầu từ phim Tế Lộ Tường. Năm 1950, ông lần đầu xuất hiện với nghệ danh Lí Long trong phim Tế Lộ Tường. Vì một phần trong tiêu đề phụ của phim Tế Lộ Tường và sau đó xuất hiện trên các tờ báo có ghi tên "Lý Long". Còn tên tiếng Anh "Bruce" của Lý Tiểu Long được đặt theo gợi ý của Mary Glover, người y sĩ đã đỡ đẻ tại bệnh viện Đông Hoa, San Francisco.


    Năm 1941 khi 1 tuổi, Lý Tiểu Long cùng gia đình trở về Hồng Kông và sống ở căn hộ số 218 đường Nathan. Lý Tiểu Long và em trai ban đầu được nhận vào trường tiểu học St. Mary's Canossian College. Năm 1949, theo yêu cầu của nhà thờ Công giáo, tất cả các nam sinh phải chuyển sang trường Đức Tin (Tak Sun School) sau đó sang trường trung học Công giáo La Salle College. Mặc dù thời niên niếu của Lý Tiểu Long sống trong gia đình khá giả nhưng khu dân cư ngày một đông người, dẫn tạo ra cuộc xung đột băng đảng giành địa bàn, trở nên đông đúc, nguy hiểm hơn. Lý Tiểu Long bị đuổi học năm lớp 4 do đánh nhau và vắng mặt nhiều lần nên chuyển sang trường St. Francis Xavier's College. Lúc nhỏ Lý Tiểu Long có vóc người gầy yếu, cha ông muốn con trai có thân hình khỏe mạnh nên đã dạy Thái cực quyền cho ông từ năm lên 7. Tới năm 1946 Lý Tiểu Long đóng vai đầu tiên trong phim The Beginning of a Boy và sau đó, ông tham gia trong các phim The Birth of Mankind, My Son và Ah Cheun... (khoảng 20 phim). Từ các vai nhí này, tài năng diễn xuất của ông dần bộc lộ.

    Lý Tiểu Long
    Lý Tiểu Long
    Lý Tiểu Long
  3. Trần Huệ Mẫn sinh năm 1944 trong một gia đình khá giả, bố làm nghề thủy thủ quanh năm trên biển hiếm khi về nhà, mẹ ông là người chu toàn lo cho hai anh em ông. Ngay từ nhỏ ông đã có niềm đam mê võ thuật, từng học "Đàm gia tam triển quyền" và boxing của phương Tây. Trong giới võ thuật của châu Á thường truyền tụng nhau rằng "Quyền có Trần Huệ Mẫn, chân có Lý Tiểu Long" nói vậy để thấy được thế mạnh cũng như tài năng của ông. Năm 1972 Trần Huệ Mẫn đại diện cho Hồng Kông tham gia giải đấu Boxing Đông Nam Á và đoạt giải quán quân. Năm 1983 tham gia "Cuộc so tài của các anh hùng thế giới" chỉ mất 35 giây đã hạ knock-out quyền thủ người Nhật Morigasaki. Sau đó ông tham gia sự nghiệp diễn xuất, với hình xăm trên người ông chuyên đảm nhận những vai phản diện, xã hội đen, lưu manh.


    Trần Huệ Mẫn từng giành được 2 chức vô địch quyền Anh Đông Á liên tiếp vào các năm 1970 và 1971. Có lần, ông hạ gục một võ sĩ Nhật Bản và giành đai vô địch chỉ sau 35 giây. Đáng chú ý, ông từng là bạn thân của huyền thoại võ thuật Lý Tiểu Long. Giới võ thuật Trung Quốc thậm chí còn ca ngợi "Quyền có Trần Huệ Mẫn, cước có Lý Tiểu Long", hay gọi ông là "Thần quyền". Điều này đủ thấy đẳng cấp và danh tiếng của Trần Huệ Mẫn trong giới võ thuật là đáng gờm như thế nào. Sau này, khi đã luống tuổi, Trần Huệ Mẫn từng thổ lộ trên một chương trình truyền hình rằng ông ghét thế giới ngầm vì những đối tượng này thường có tác động xấu đến xã hội. Ông cho rằng đã đến lúc để những tổ chức này không nên tồn tại.

    Trần Huệ Mẫn
    Trần Huệ Mẫn
    Trần Huệ Mẫn
  4. Chân Tử Đan sinh ngày 27 tháng 7 năm 1963 là một nam diễn viên người Trung Quốc, ngoài ra ông còn là một đạo diễn, nhà chỉ đạo võ thuật và nhà sản xuất điện ảnh. Ông nổi tiếng trên màn ảnh truyền hình và màn ảnh rộng qua những vai diễn có sử dụng võ thuật như một trong những ngôi sao võ thuật hàng đầu châu Á. Về diễn xuất, Chân Tử Đan từng hai lần nhận được đề cử giải Kim Tượng. Ông được coi là người trẻ nhất trong số những nhà chỉ đạo võ thuật xuất sắc nhất thế giới, từng nhiều lần được trao giải thưởng về chỉ đạo võ thuật tại các liên hoan phim Hồng Kông và châu Á. Từ nhỏ ông rất thích học và nghiên cứu võ thuật, từng là đệ tử của nhiều phái võ khác nhau như Thái Cực Đạo, Wushu. Thần tượng của ông lúc này là Lý Tiểu Long, ông hâm mộ đến mức bắt chước cột một dải lụa ở ống chân để giắt cây côn nhị khúc.


    Sự say mê võ thuật khiến ông lơ là, chán nản việc học. Ông bỏ học, gia nhập băng đảng và thường tham gia những cuộc đánh lộn, có khi băng đảng của ông đã gây ra án mạng. Điều đó khiến cha mẹ anh lo sợ, họ đưa ông trở về Quảng Đông. Trở về quê nhà, ông đi theo con đường của một võ sĩ Wushu. Trong những ngày đầu đóng phim, Chân Tử Đan đã nhờ đến thẩm mỹ viện để chỉnh sửa lại cặp mắt một mí và hàm răng không mấy ngăn nắp của mình. Sự sửa đổi dung mạo này được thể hiện rõ trong giai đoạn tiếp theo, từ sau phim Lồng Hổ 1. Tuy vậy, từ đó đến năm 1989, ông chỉ được giao những vai phụ. Năm 1989, bộ phim Tiêu diệt nhân chứng đưa tên tuổi Chân Tử Đan vào hàng ngũ những diễn viên võ thuật ăn khách. Hai năm sau, ông hợp tác với Quan Chi Lâm và Ngô Đại Duy trong bộ phim về đề tài rửa tiền: Lồng Hổ 2. Tiếp theo đó là các phim Con gái quỷ Satan, Nộ hỏa uy long, tuy nhiên không được nhiều người chú ý.

    Chân Tử Đan
    Chân Tử Đan
    Chân Tử Đan
  5. Lý Liên Kiệt sinh ngày 26 tháng 4 năm 1963 là một nam diễn viên võ thuật nổi tiếng người Trung Quốc. Ngoài vai trò diễn viên, Lý Liên Kiệt còn được biết tới là nhà sản xuất, nhà hoạt động từ thiện. Vào năm 2017, Lý Liên Kiệt đã giới thiệu tới công chúng môn võ Công Thủ Đạo với tư cách là người sáng lập dựa trên nền tảng của Thái cực quyền. Lý Liên Kiệt tập wushu từ 8 tuổi với võ sư Ngô Bân, cùng một sư phụ với Chân Tử Đan, ông đã sớm bộc lộ năng khiếu và tư chất để trở thành một cao thủ. Thuở nhỏ, giống như đàn anh Lý Tiểu Long, Lý Liên Kiệt không có một thể trạng tốt cho việc học võ. Ông yếu đuối, lại sống trong một gia đình có quá nhiều áp lực, nên nhiều lần đã định bỏ cuộc. Nhưng được sư phụ động viên, ông đã vượt qua được.


    Lý Liên Kiệt được yêu thích không phải nhờ khả năng diễn xuất mà là các thế võ đẹp, lạ, mạnh mẽ đúng chất Thiếu Lâm của ông. Năm 1982 đánh dấu bước ngoặt đối với chàng trai họ Lý, vai diễn trong loạt ba bộ phim Thiếu Lâm Tự đã gây được tiếng vang lớn và tạo bước đệm đầu tiên trên con đường khẳng định tên tuổi trong lĩnh vực điện ảnh của Lý Liên Kiệt. Năm 1991, với bộ phim Hoàng Phi Hồng kinh điển, Lý Liên Kiệt đã đưa tên tuổi của mình đến được Hollywood, khán giả Đông Nam Á thì đâu đâu cũng nhắc đến Hoàng Phi Hồng, Dì mười ba, Quỷ Cước Thất là các nhân vật trong phim này. Phần thành công của phim cũng nhờ sự đạo diễn tài tình của Từ Khắc và Viên Hòa Bình. Tiếp đến là hàng loạt các phim kinh điển: Phương Thế Ngọc, Hoàng Phi Hồng 2 & 3... đã đưa ông đến đỉnh cao vinh quang, trước hết là một hình tượng anh hùng trong lòng người châu Á, sau đó là thế giới.

    Lý Liên Kiệt
    Lý Liên Kiệt
    Lý Liên Kiệt
  6. Ngô Kinh sinh ngày 03/04/1974 sinh ra tại Bắc Kinh trong một gia đình nhà võ, năm 6 tuổi anh học võ tại viện võ thuật Bắc Kinh, năm 13 tuổi được chọn vào đội tuyển Wushu Bắc Kinh. Ngô Kinh thuộc dòng dõi "Chính Hoàng Kỳ", một trong "Thượng Tam Kỳ" của Hoàng tộc Mãn Châu. Anh sinh trưởng tại Bắc Kinh, Trung Quốc trong một gia đình nhà võ. Anh là con một, từ nhỏ đã được cha quản lý chặt chẽ vì tính khí nghịch ngợm, hiếu động của mình. Năm 6 tuổi, anh được đưa vào học võ tại viện võ thuật Bắc Kinh ở Thập Sát Hải. Năm 13 tuổi, anh được chọn vào đội tuyển Wushu Bắc Kinh. Tại đây anh làm quen với những tháng ngày luyện tập vất vả dưới sự chỉ dẫn của sư phụ Ngô Bân, người từng đào tạo cho Lý Liên Kiệt, Chân Tử Đan và Triệu Văn Trác. Thời gian sau, do tập luyện quá mức nên anh bị thoái hóa xương cột sống, dẫn đến tê liệt hai chân. Sau khi xuất viện, mặc dù đôi chân vẫn chưa khỏi hẳn, nhưng anh vẫn quyết tâm trở lại lớp tập thể lực như bao bạn khác. Sư phụ Ngô Bân đã giúp đỡ Ngô Kinh vượt qua những khó khăn trong thời gian này, ông đã đưa anh đến với những cuộc thi võ thuật, lúc này anh được 16 tuổi. Trong vòng hai năm, anh đã đem về hàng loạt các danh hiệu quán quân toàn quốc qua các nội dung như quyền, đao, thương...

    Năm 1992 (18 tuổi), một chấn thương trong khi thi đấu đã khiến chân phải của Ngô Kinh bị thương nghiêm trọng dẫn đến nguy cơ tàn phế, điều đó khiến anh cảm thấy rất hụt hẫng, nản chí. Anh dọn ra ở riêng, xa lánh bạn bè, gia đình. Đến một hôm, khi đi chợ mua thực phẩm, Ngô Kinh bắt gặp bọn xấu đang cưỡng hiếp một cô gái, anh liền ra tay đánh đuổi bọn chúng, sau đó mới nhận ra chân phải của mình đã có cảm giác lại. Vì việc làm này, Ngô Kinh được tuyên dương trên báo đài. Anh có niềm tin trở lại và quyết tâm chữa trị bằng vật lý trị liệu. Năm 1994, vết thương lành, anh trở lại trường thể dục thể thao. Một năm sau, giống như Thành Long và Chân Tử Đan, võ sĩ Ngô Kinh bước vào con đường của một diễn viên võ thuật dưới sự dẫn dắt của Viên Hòa Bình. Năm 2001, Ngô Kinh được Viên Hòa Bình tiến cử với Từ Khắc để anh cùng hợp tác với những tên tuổi như Trịnh Y Kiện, Trương Bá Chi, Cổ Thiên Lạc... trong bộ phim điện ảnh Thục Sơn kỳ hiệp. Tuy vậy, Thục Sơn kỳ hiệp lại là một trong những phim không thành công của Từ Khắc do dùng kỹ xảo quá nhiều. Năm sau, đạo diễn võ thuật nổi tiếng Lưu Gia Lương mời anh đóng bộ phim Túy mã lưu, trong phim anh đã diễn tả những môn võ hầu quyền và túy quyền khá đặc sắc. Ngô Kinh là một trong số ít các diễn viên nổi tiếng có đời tư ít scandal. Anh kết hôn cùng MC Tạ Nam vào năm 2014, đã có hai con trai tên Ngô Sở Vị và Ngô Vô Lự.

    Ngô Kinh
    Ngô Kinh
    Ngô Kinh
  7. Lương Tiểu Long sinh năm 1948, trong một gia đình nghèo tại Hong Kong. Từ năm 8 tuổi, cậu bé Tiểu Long bắt đầu bước vào nghiệp võ với ước mơ đổi đời. Môn võ đầu tiên Tiểu Long theo học là Goju Ryu Karate (một hệ phái của Karate). Không chỉ các chiêu thức, Tiểu Long còn được dạy về những triết lý ẩn sau. Nhờ đó, Tiểu Long vừa xây dựng được nền tảng võ công, vừa tu thân, không để bản thân bị vướng vào những thói hư, tật xấu như một số bạn bè cùng hoàn cảnh. Sau đó, Tiểu Long học thêm Vịnh Xuân Quyền. Sự lợi hại trong các chiêu thức của Lương Tiểu Long là kết hợp nhuần nhuyễn giữa Karate và Vịnh Xuân Quyền. Các đòn đánh của ông vừa nhanh vừa hiểm, có thể hạ gục đối thủ trong chớp mắt. Trước khi trở thành diễn viên, Lương Tiểu Long đã thi đấu tại nhiều giải võ thuật đối kháng và giành huy chương. Ông bén duyên điện ảnh một cách tình cờ. Một hôm, Lương Tiểu Long bị nhóm 10 người đàn ông, mang theo vũ khí, phục kích. Nhưng cuối cùng, những tên này bị đánh cho thảm bại phải chạy trốn. Đáng nói, một đạo diễn nổi tiếng đã chứng kiến vụ việc và dẫn lối Lương Tiểu Long đến với phim ảnh.


    Vào thập niên 1980, ông bước chân vào nghiệp diễn và nhanh chóng nổi tiếng nhờ hình tượng Hoắc Nguyên Giáp (1981) và Trần Chân (1982) trong hai bộ phim cùng tên. Với khán giả Việt, ông quen thuộc với vai diễn Hỏa Vân Tà Thần trong “Tuyệt đỉnh kungfu” của Châu Tinh Trì. Trong phim, ông sử dụng võ cóc, từ đó ông thường được gọi là “quái nhân võ cóc”. Sự nghiệp của Lương Tiểu Long phất lên nhanh chóng, nhưng cũng sớm tàn lụi vào cuối thập niên 1980 vì ông không khôn khéo trong giao tiếp. Quen kiểu nói năng thẳn thắng, không kiêng nể, ông thường gây mất lòng ê kíp làm phim. Đỉnh điểm, sự cố “vạ miệng” trong buổi giao lưu với khán giả ở Đại lục sau khi hoàn thành phim “Tứ đại danh bổ” khi ông nói về Đài Loan. Từ đó, sự nghiệp của sao võ thuật bị phong tỏa ở Đài Loan - thị trường chủ yếu của điện ảnh Hong Kong thời điểm đó. Vì lý do này, không nhà sản xuất nào dám hợp tác với nam diễn viên này.

    Lương Tiểu Long
    Lương Tiểu Long
    Lương Tiểu Long
  8. Lưu Gia Huy sinh năm 1936 tại Quảng Châu, Quảng Đông, Trung Quốc trong một gia đình giàu truyền thống võ học. Ông học võ từ bé, tư chất thông minh, tinh thông nhiều loại quyền thuật, thường được mệnh danh là anh hùng đầu trọc. Thời trẻ (15 - 20 tuổi), anh trốn học để đi học võ thuật Trung Quốc mà cha mẹ không hề hay biết. Anh được đào tạo tại trường võ thuật Hung Gar của Lau Cham, là hậu duệ của môn sinh của Vương Phi Hùng (cha của Lau Kar Leung ). Vợ của Lau Cham đã hỗ trợ anh trong việc huấn luyện và do tình bạn và sự tôn trọng mà Lưu Gia Huy dành cho vợ chồng Lau, anh đã lấy tên là Lau Ka-fai. Khi lớn lên, anh ấy đã tìm được một công việc như một nhân viên vận chuyển để kiếm sống qua ngày. Sở thích của anh ấy luôn hướng tới võ thuật và cuối cùng anh ấy đã được Lau Kar-leung đề nghị một vai. Vào cuối những năm 1980, ông đã bắt đầu chấp nhận vai trò nhỏ hơn, chẳng hạn như trong Lưu Gia Lương 's Tiger trên Beat .


    Lưu Gia Huy cũng hoạt động trong lĩnh vực truyền hình, và được ký hợp đồng với công ty TVB của Hồng Kông trong nhiều năm, tiếp tục đóng vai một võ sư. Mặc dù vẫn thể hiện một số vai võ thuật, anh ấy ở nhà cũng như trong các nhân vật hài, tự ti hoặc tình cảm. Vai trò thứ hai hầu hết phổ biến của mình trong TVB đã được chơi một Lực lượng Cảnh sát Hồng Kông viên. Năm 2008, Lưu Gia Huy đã thêm một bộ phim Bollywood vào trang cá nhân của mình. Hợp tác với nam diễn viên Ấn Độ Akshay Kumar, nam diễn viên Bollywood được yêu thích hàng đầu và cũng là người biểu diễn võ thuật trong bộ phim có tựa đề Chandni Chowk To China (CC2C). Anh đóng vai nhân vật phản diện, Hojo, một tay buôn lậu và là một võ sĩ được đào tạo bài bản. Trước đó, anh ấy đã xuất hiện với tư cách là chính mình (cùng với người cố vấn Lau Kar Leung) trong bộ phim Dragonland năm 2009, bộ phim tài liệu Ý đầu tiên về lịch sử điện ảnh võ thuật, của Lorenzo De Luca. Lưu Gia Huy đã tham dự với tư cách là khách mời đặc biệt tại buổi ra mắt ở Rome, lần đầu tiên gặp gỡ những người hâm mộ Ý của mình. Trong tháng 8 năm 2011, Lưu Gia Huy bị đột quỵ và tạm dừng mọi kế hoạch để hồi phục.

    Lưu Gia Huy
    Lưu Gia Huy
    Lưu Gia Huy
  9. Phàn Thiếu Hoàng sinh ngày 19/06/1973 tại Hồng Kông, lớn lên trên phim trường và được dìu dắt bởi người cha, anh dần trở thành ngôi sao võ thuật nổi tiếng. Phàn Thiếu Hoàng là con trai của Fan Mei-sheng, một diễn viên của Shaw Brothers Studio. Khi anh 14 tuổi, cha anh gửi anh đến Từ Châu, Trung Quốc, để học thể dục dụng cụ và wushu. Anh được xem là thần đồng võ thuật khi tham gia đóng phim từ năm 3 tuổi. Năm 1986, Phàn Thiếu Hoàng trở thành sao nhí nổi tiếng và được góp mặt trong các bộ phim như Tạm biệt mẹ Không nghe thấy. Tiếp đó trong bộ phim Bá vương biệt cơ anh vào vai Trình Điệp Y thời nhỏ khi mới 11 tuổi. Nhờ có nền tảng là môn võ Taekwondo, Phàn Thiếu Hoàng tiếp tục tìm đến nhiều môn võ thuật khác nhau như Wushu, Hồng Gia quyền và gặt hái được nhiều thành công lớn. Sau khi hoàn thành việc học của mình, Phàn Thiếu Hoàng quay trở lại lĩnh vực điện ảnh và xuất hiện lần đầu với tư cách là diễn viên chính trong phim The Stone Age Warriors (1991) của Stanley Tong.


    Năm 1992, khi 18 tuổi, Phàn Thiếu Hoàng đã thể hiện nhân vật chính trong Riki-Oh: The Story of Ricky, một bộ phim Hồng Kông dựa trên manga Riki-Oh. Phàn Thiếu Hoàng là một nghệ sĩ hợp đồng của đài truyền hình Hồng Kông TVB trong suốt những năm 1990, và anh ấy đã đóng vai chính trong một số bộ phim truyền hình như Demi-Gods và Semi-Devil (1997) và Young Hero Fang Shiyu (1999). Anh rời TVB sau đó và làm việc trên một số phim truyền hình Đài Loan và Trung Quốc đại lục trước khi tập trung vào điện ảnh. Phàn Thiếu Hoàng cũng miêu tả "Jin Shanzhao", các võ sĩ Bắc khó khăn trong bộ phim 2008 Ip Man, mà diễn viên chính Chân Tử Đan như Wing Chun võ Ip Man. Diễn xuất của Fan trong Ip Man đã mang về cho anh đề cử Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 28 năm 2009. Anh đã thể hiện lại vai diễn Jin Shanzhao trong Ip Man 2, phần tiếp theo năm 2010 của Ip Man. Anh đóng một nhân vật mới trong The Legend Is Born - Ip Man (2010), một bộ phim khác về Diệp Vấn không liên quan đến Ip Man và Ip Man 2.

    Phàn Thiếu Hoàng
    Phàn Thiếu Hoàng
    Phàn Thiếu Hoàng
  10. Thành Long sinh ngày 7/4/1954 tại núi Thái Bình, Hồng Kông, cha mẹ là người di cư do cuộc nội chiến ở Trung Quốc. Anh là diễn viên Trung Quốc có tầm ảnh hưởng lớn trong giới điện ảnh thế giới, anh cũng là nghệ sĩ Trung Quốc duy nhất lưu lại dấu mũi, dấu chân, dấu tay của mình trên Đại lộ danh vọng Hollywood. Sự nghiệp của anh được biết đến với hàng loạt các bộ phim đình đám với những pha võ thuật đẹp mắt, lối đánh liều mạng cộng với đó là hài ước trong diễn xuất nên nhanh chóng chiếm được cảm tình của người hâm mộ đúng với tinh thần của dân tộc Trung Hoa. Thành Long là một trong những nhân vật điện ảnh nổi tiếng và có tầm ảnh hưởng nhất trên thế giới, nhận được sự hâm mộ rộng rãi ở cả hai bán cầu Đông và Tây, và đã được lưu danh trên Đại lộ Ngôi sao Hồng Kông và Đại lộ Danh vọng Hollywood. Ông được giới thiệu trong nhiều bài hát nhạc pop, phim hoạt hình và trò chơi điện tử. Ông là một ca sĩ được đào tạo bài bản và cũng là một ngôi sao của dòng nhạc Cantopop và Mandopop, đã phát hành một số album và bài hát nhạc phim mà ông đã đóng vai chính. Ông cũng là một nhà từ thiện nổi tiếng toàn cầu và được tạp chí Forbes vinh danh là một trong 10 người nổi tiếng làm từ thiện nhiều nhất.


    Năm 2004, học giả điện ảnh Andrew Willis xem Thành Long là "ngôi sao được công nhận nhiều nhất trên thế giới". Vào năm 2015, Forbes ước tính giá trị tài sản ròng của ông là 350 triệu đô la và tính đến năm 2016, ông là diễn viên kiếm tiền cao thứ hai trên thế giới. Thành Long tự mình thực hiện phần lớn các pha hành động nguy hiểm, do Nhóm hành động mạo hiểm Thành Long (Thành Gia Bang) chỉ đạo diễn xuất. Ông đã nói trong các lần phỏng vấn rằng cảm hứng chủ yếu cho những pha hành động hài của ông là từ những bộ phim như The General, với diễn viên chính là Buster Keaton, người cũng nổi tiếng vì tự mình diễn các pha nguy hiểm không cần thế vai. Từ khi thành lập nhóm năm 1983, Thành Long đã sử dụng nhóm trong tất cả các phim sau đó của ông để giúp việc chỉ đạo diễn xuất dễ dàng hơn, do ông đã hiểu khả năng của từng thành viên. Thành Long và nhóm của ông cũng thực hiện nhiều pha hành động cho những nhân vật khác trong phim của ông, họ chọn góc quay sao cho khuôn mặt không lộ ra.

    Thành Long
    Thành Long
    Thành Long



Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy