Top 10 Nước nghèo nhất thế giới hiện nay

Dương Thị Khánh Ly 13588 0 Báo lỗi

Các nước nghèo nhất thế giới chính là những quốc gia chậm phát triển nhất về cả kinh tế lẫn xã hội. Sau đây sẽ là những nước nghèo nhất thế giới hiện nay. Tại ... xem thêm...

  1. Top 1

    Burundi

    Burundi là một nước nông nghiệp lạc hậu. Ngành kinh tế lớn nhất là nông nghiệp với trên 90% dân số sống bằng nghề nông. Burundi có các loại khoáng sản quý như kim cương, vàng, niken, coban, platin, urani, wolfram... thu nhập từ kim cương chiếm 10% tổng giá trị hàng xuất khẩu.

    Burundi
    là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Công nghiệp kém phát triển chủ yếu là chế biến các sản phẩm nông nghiệp. Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp chiếm khoảng 35% GDP và sử dụng hơn 90% dân số. Burundi xuất khẩu chính là cà phê và chè, chiếm 90% thu nhập ngoại tệ. Mặc dù GDP Burundi tăng khoảng 4% hàng năm từ 2006 đến nay, nhưng hiện tại, đang tiềm ẩn những yếu kém (tỷ lệ đói nghèo cao, hệ thống pháp luật yếu, mạng lưới giao thông kém, các tiện ích quá tải, và năng lực hành chính thấp…) mang đến nguy cơ phá hoại kế hoạch cải cách kinh tế của Chính phủ Burundi. Burundi đang phụ thuộc nhiều vào viện trợ từ các nhà tài trợ song phương và đa phương.

    Burundi
    là nước nghèo tài nguyên, công nghiệp kém phát triển. Kinh tế chủ yếu dựa vào trồng trọt (cà phê, ngô, đậu, lúa miến, chè, bông vải, dầu cọ) và chăn nuôi (dê, cừu, bò). Khoảng 90% dân số sống nhờ vào nông nghiệp. Các mặt hàng xuất khẩu gồm cà phê, chè và chuối. Kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu cà phê (chiếm đến 80% ngoại tệ thu được) Vì vậy khả năng thanh toán hàng hóa nhập khẩu không ổn định, tùy vào thị trường cà phê thế giới. Từ tháng 10 năm 1993, đất nước này trải qua những cuộc bạo động, xung đột lớn về sắc tộc làm khoảng 250.000 người chết và 800.000 người mất nhà cửa. Thực phẩm, thuốc men, điện nước không đủ đáp ứng.


    Từ năm 2006 đến nay, GDP của nước này tăng 4% hàng năm nhưng vẫn còn tiềm ẩn yếu kém dẫn đến những nguy cơ cho kế hoạch cải cách kinh tế của chính phủ.


    Thu nhập bình quân đầu người của Burundi: 727 USD/người/năm

    Burundi
    Burundi

  2. Giàu vàng, dầu, uranium và kim cương, Cộng hòa Trung Phi là một quốc gia rất giàu có với những người rất nghèo. Tuy nhiên, sau khi giữ danh hiệu quốc gia nghèo nhất thế giới trong gần cả thập kỷ, quốc gia chỉ 4,7 triệu này đang cho thấy một số dấu hiệu tiến bộ. Lần đầu tiên kể từ khi độc lập khỏi Pháp vào năm 1960, năm 2016, Cộng hòa Trung Phi đã bầu một tổng thống một cách dân chủ: cựu giáo sư toán học và thủ tướng Faustin Archange Touadéra, người đã vận động như một người hòa giải, người có thể làm cầu nối giữa người thiểu số Hồi giáo và đa số Kitô hữu.


    Kinh tế Cộng hòa Trung Phi là một trong những kinh tế kém phát triển nhất thế giới. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn (55%) trong tổng sản phẩm quốc nội và cơ bản là nền nông nghiệp tự cung tự cấp. Tỉ lệ thất nghiệp của nước này lên tới hơn 30%, tỉ lệ nghèo hơn 80%.


    Trong khi cuộc bầu cử thành công của ông được coi là một bước quan trọng đối với công cuộc tái thiết quốc gia, với khoảng 75% dân số vẫn sống dưới mức nghèo khổ, con đường phục hồi sẽ rất dài. Tăng trưởng đã tăng, được thúc đẩy bởi ngành gỗ và sự hồi sinh của cả ngành nông nghiệp và khai thác mỏ. Nền kinh tế cũng được hưởng lợi từ việc bán kim cương được nối lại một phần, vốn được cho là tài trợ cho các nhóm vũ trang liên tôn giáo và bị cấm vận quốc tế vào năm 2013.


    Thu nhập bình quân đầu người của CH Trung Phi: 746 USD/người/năm

    Cộng hòa Trung Phi
    Cộng hòa Trung Phi
  3. Nền kinh tế Cộng hoà Congo pha trộn giữa nông nghiệp làng xã và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp; khu vực công nghiệp chủ yếu dựa vào dầu mỏ, trụ cột của nền kinh tế, cung cấp nguồn thu và nguồn xuất khẩu chủ yếu cho chính phủ. Sau cuộc nội chiến, tháng 10 năm 1997, chính phủ đã công khai thể hiện mối quan tâm của mình trong việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế, tư nhân hoá và đổi mới sự hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế.

    Nhưng những tiến bộ của nền kinh tế đã nhanh chóng bị ảnh hưởng bởi biến động của giá dầu và những cuộc xung đột vũ trang trong nước vào tháng 12 năm 1998 và gây ra sự thâm hụt ngân sách nghiêm trọng và gây khó khăn cho nền kinh tế. Nhưng việc giá dầu hồi phục trong thời gian gần đây đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này đạt 10,5%. Trong khi đó tỷ lệ lạm phát giữ ở mức độ ổn định, khoảng 5,2%.

    Năm 2010, GDP của Congo đạt 11,88 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 3000 USD/người/năm. Tuy nhiên, phân phối thu nhập là không đồng đều chỉ tập trung vào một nhóm người và phần đông dân số vẫn sống dưới mức nghèo khổ. Nông nghiệp chỉ đóng góp vào 4,4% GDP. Các nông sản chủ yếu là: gạo, đường, ngô, rau, cà phê, ca cao, sắn, đậu phộng, lâm sản. Công nghiệp của Congo đóng góp vào 63,7% GDP của nước này. Công nghiệp dựa chủ yếu vào dầu mỏ với sản lượng 274,4 nghìn thùng/ngày.


    Bây giờ đất nước đã sẵn sàng để sang một trang mới: vào ngày 24 tháng 1 năm 2019, Félix Antoine Tshisekedi Tshilombo, con trai của nhà lãnh đạo đối lập huyền thoại Etienne Tshisekedi, đã được bầu làm tổng thống mới. Với 80 triệu ha đất trồng trọt và hơn một ngàn khoáng sản và kim loại có giá trị dưới bề mặt, Cộng hòa Dân chủ Congo có tiềm năng trở thành một trong những quốc gia châu Phi giàu nhất và là động lực tăng trưởng cho toàn lục địa, theo Ngân hàng Thế giới. Nhưng bất ổn chính trị và tham nhũng đặc hữu tiếp tục làm thất vọng tiềm năng đó.


    Thu nhập bình quân đầu người của Cộng hòa dân chủ Congo: 791 USD/người/năm

    Cộng hòa Dân chủ Congo
    Cộng hòa Dân chủ Congo
  4. Ma-rốc (Morocco) tên chính thức gọi là Vương quốc Ma-rốc, là một quốc gia có chủ quyền nằm trong vùng Maghreb ở Bắc Phi. Về mặt địa lý, Ma-rốc có đặc điểm là miền núi khắc nghiệt, những vùng sa mạc rộng lớn và một đường bờ biển dài dọc theo Đại Tây Dương và biển.


    Là một trong những quốc gia nhỏ nhất ở Châu Phi, trong những năm gần đây, Ma-rốc đã có những bước tiến trong việc cải thiện tăng trưởng kinh tế và thực hiện các cải cách cơ cấu quan trọng. GDP bình quân đầu người của nó, đã tăng từ khoảng 975 đô la năm 2010 lên 1.200 đô la vào năm 2018, hiện được dự đoán sẽ đạt 1.580 đô la vào năm 2024.


    Triển vọng cải thiện này đã được giám sát bởi một chính phủ dân chủ và ổn định, đã nhận được hỗ trợ tài chính đáng kể từ cả IMF và Ngân hàng thế giới. Tuy nhiên, nghèo đói vẫn còn phổ biến và nền kinh tế của quốc gia Cộng hòa, phụ thuộc phần lớn vào các loại cây trồng có mưa, mưa vẫn dễ bị ảnh hưởng bởi thời tiết. Kết quả là, trong khi mức sống ở thành thị nhìn chung được cải thiện, thì tình trạng mất an ninh lương thực ở khu vực nông thôn là vô cùng cao.


    Thu nhập bình quân đầu người của Ma-rốc: 1.234 USD/người/năm

    Ma-rốc
    Ma-rốc
  5. Top 5

    Nigeria

    Với 80% lãnh thổ không giáp biển, được bao phủ bởi sa mạc Sahara và dân số tăng nhanh phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp quy mô nhỏ. Nigeria đang bị đe dọa từ sa mạc hóa và biến đổi khí hậu. Mất an ninh lương thực rất cao, cũng như tỷ lệ bệnh tật và tỷ lệ tử vong, và nguy cơ đụng độ tái diễn giữa nhóm thánh chiến và liên minh Nhà nước Hồi giáo (ISIS) Boko Haram. Sự phát triển kinh tế của Nigeria bị cản trở bởi chế độ quân trị. Một trong những động lực chính của nền kinh tế là việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá như vàng và uranium, cũng đã bị biến động và giá cả hàng hóa thấp.


    Nigeria là nước có số dân đông nhất châu Phi, nhưng đông đến mức nào vẫn chỉ là con số phỏng đoán. Liên Hiệp Quốc ước tính dân số Nigeria vào năm 2009 khoảng 154,729,000 người, với khoảng 51.7% sống ở nông thôn và 48.3% sống ở thành thị, và với mật độ dân cư là 167.5 người/km2. Tổng điều tra dân số các thập kỷ trước cũng mang lại các kết quả tranh cãi. Số liệu của cuộc tổng điều tra gần đây nhất được công bố vào tháng 12 năm 2006 cho thấy dân số vào thời điểm đó là 140,003,542 người. Sự phân nhóm duy nhất là tỷ lệ nam/nữ: 71,709,859/68,293,083 người.


    Tuy nhiên, quốc gia lớn nhất ở Tây Phi dường như cuối cùng đã bước vào giai đoạn chuyển đổi chính trị và kinh tế mới. Bị phá vỡ bởi các cuộc đảo chính chính trị kể từ khi độc lập khỏi Pháp vào năm 1960, năm 2011, Nigeria tuyên bố lãnh đạo phe đối lập kỳ cựu Mahamadou Issoufou giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống. Kể từ đó, việc áp dụng luật đầu tư mới, cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng đã góp phần làm tăng mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài.


    Thu nhập bình quân đầu người của Nigeria: 1.280 USD/người/năm

    Nigeria
    Nigeria
  6. Kinh tế Mozambique bị suy sụp do các cuộc chiến tranh du kích và nội chiến kéo dài suốt 30 năm, là một trong những nước nghèo nhất thế giới phải nhờ đến sự giúp đỡ của quốc tế.

    Là thuộc địa của Bồ Đào Nha trước đây, có nhiều đất và nước để trồng trọt, cùng nguồn năng lượng và khoáng sản dồi dào. Trên hết, một mỏ khí đốt tự nhiên được phát hiện gần đây có thể tăng thêm khoảng 40 tỷ đô la cho nền kinh tế vào năm 2035. Mozambique cũng có vị trí chiến lược, vì bốn trong số sáu quốc gia mà nó giáp biên giới phụ thuộc vào nó như một trung gian cho thương mại toàn cầu. Trong 10 năm qua đã công bố tốc độ tăng trưởng GDP trung bình trên 5%.


    Tuy nhiên, nó vẫn nằm trong số những quốc gia nghèo nhất thế giới, với các khu vực dân số lớn tiếp tục sống dưới mức nghèo khổ. Trong khi cuộc nội chiến kéo dài 15 năm đã kết thúc vào năm 1992 thì điều kiện khí hậu khắc nghiệt, tham nhũng và bất ổn chính trị không bao giờ biến mất. Vào tháng 10 năm 2019, nước này sẽ bầu tổng thống và Quốc hội tiếp theo, nhưng dự kiến người mới sẽ phải cạnh tranh với ông Frelimo, đảng cầm quyền từ năm 1994, và Renamo, đảng đối lập lớn nhất, ít người tin rằng mọi thứ sẽ thực sự thay đổi.


    Thu nhập bình quân đầu người của Mozambique: 1.310 USD/người/năm

    Mozambique
    Mozambique
  7. Top 7

    Liberia

    Cộng hòa lâu đời nhất Châu Phi cũng được xếp hạng trong số các quốc gia nghèo nhất trong thời gian dài nhất. Liberia được thành lập năm 1822 làm nơi định cư cho dân nô lệ được giải phóng từ Mỹ rồi được hồi hương về châu Phi. Năm 1847 Liberia trở thành quốc gia độc lập. Thủ đô Monrovia vinh danh Tổng thống Hoa KỳJames Monroe (1758-1831). Tuy xứ sở này hình thành do dân nô lệ da đen từ Bắc Mỹ trở về lập nghiệp, đại đa sô dân Liberia là thổ dân thuộc 16 bộ tộc bản xứ. Tình hình chính trị Liberia tương đối ổn định trong một thời gian dài tuy có ít nhiều tranh chấp giữa người Mỹ gốc Phi châu và thổ dân bản xứ. Từ năm 1885 đến năm 1910, địa giới Liberia được phân định qua các thỏa thuận với hai đế quốc Anh và Pháp.

    Trong khi đất nước đã tận hưởng hòa bình và ổn định kể từ khi kết thúc cuộc nội chiến năm 2003, chính phủ của Liberia đã không giải quyết thỏa đáng các vấn đề hệ thống nghiêm trọng và các thách thức cơ cấu. Để thêm vào những khó khăn, đất nước chỉ 4,7 triệu người này đã phải vật lộn để phục hồi sau sự sụt giảm giá cả hàng hóa và đại dịch Ebola tấn công Tây Phi năm 2014.


    Mọi thứ dường như đang cải thiện. Con số tăng trưởng và GDP trên mỗi người đã cho thấy sự cải thiện đáng kể. IMF dự báo xu hướng thuận lợi trong nhiều năm tới. Tổng thống: George Weah đã được bầu trong cuộc tổng tuyển cử năm 2017. Chính quyền của ông đã tập trung vào tạo việc làm, đa dạng hóa kinh tế và nhu cầu cơ sở hạ tầng quan trọng.


    Thu nhập bình quân đầu người của Liberia: 1.413 USD/người/năm

    Liberia
    Liberia
  8. Được thành lập từ năm 2011, Nam Sudan là quốc gia non trẻ nhất thế giới, nằm ở giữa châu Phi, có biên giới với 6 quốc gia khác. Nước này rất giàu dầu mỏ, song qua nhiều năm nội chiến nó trở thành một trong những vùng ít phát triển nhất trên trái đất.


    Bạo lực đã tiếp tục tàn phá quốc gia. Được hình thành bởi 10 vùng lãnh thổ cực nam của Sudan và là nơi sinh sống của khoảng 60 dân tộc bản địa, một cuộc xung đột mới nổ ra vào năm 2013 khi tổng thống Salva Kiir cáo buộc cựu phó, thủ lĩnh phiến quân Riek Machar, dàn dựng một cuộc đảo chính. Kết quả là, ước tính gần 400.000 người đã thiệt mạng trong các cuộc đụng độ và hơn 4,3 triệu người đã phải di dời.


    Nam Sudan có thể là một quốc gia rất giàu có, nhưng với dầu chiếm gần như toàn bộ xuất khẩu của nó, giá hàng hóa giảm và chi phí liên quan đến an ninh gia tăng đã cản trở nền kinh tế của đất nước. Ngoài lĩnh vực dầu mỏ, phần lớn dân số canh tác với quy mô nhỏ. Vào tháng 8 năm 2018, Kiir và Machar đã ký một thỏa thuận ngừng bắn và thỏa thuận chia sẻ quyền lực. Nhiều tháng sau, một hội nghị được tổ chức tại Vatican, nơi Đức Giáo hoàng Phanxicô quỳ xuống và hôn chân họ trong một lời cầu xin để duy trì hòa bình. Nếu họ thành công, người dân Nam Sudan cuối cùng có thể có một cuộc sống sung túc hơn.


    Thu nhập bình quân đầu người của Nam Sudan: 1.613 USD/người/năm

    Nam Sudan
    Nam Sudan
  9. Top 9

    Comoros

    Quần đảo núi lửa này ở Ấn Độ Dương, phía bắc Kênh Mozambique, là một thiên đường tự nhiên với những bãi biển hoang sơ và thảm thực vật rừng đa dạng. Tuy nhiên, về mặt kinh tế lại là một cơn ác mộng. Thất nghiệp cao, phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài và hỗ trợ kỹ thuật. Mặc dù đất nạm đất nham thạch không phù hợp với nông nghiệp, nhưng khoảng 800.000 người kiếm sống bằng nghề nông với nghề du lịch, đánh bắt và lâm nghiệp là một trong những nền tảng khác của nền kinh tế.


    Sau khi giành được độc lập từ Pháp vào năm 1974, Comoros đã trải qua một thời kỳ bất ổn chính trị kéo dài, làm rối loạn hoạt động kinh tế và buộc nhiều người phải rời khỏi đất nước. Tổng thống đương nhiệm Azali Assoumani, người đã trở lại quyền lực lần thứ ba vào năm 2016, đã thực hiện một số cải cách cơ cấu và các chương trình giảm nghèo. Tuy nhiên, sự không chắc chắn về chính trị vẫn tồn tại, các tài khoản tài chính đang ở trong tình trạng khó khăn và mất điện kéo dài khiến việc điều hành một doanh nghiệp là không thể.


    Đất đai cằn cỗi và bị xói mòn, dân số quá đông cùng tài nguyên nghèo nàn đã khiến cho những hòn đảo kém phát triển này là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Phần lớn dân số làm nông nghiệp. Comoros cũng có các sản phẩm khác là đinh hương, va-ni và ngọc lan. Xuất khẩu 9,3 triệu USD, nhập khẩu 49,5 triệu USD; nợ nước ngoài: 197 triệu USD; điện năng sản xuất đạt 15 triệu kWg, sử dụng 14 triệu kWh.


    Thu nhập bình quân đầu người của Comoros: 1.662 USD/người/năm

    Comoros
    Comoros
  10. Nằm ở Ấn Độ Dương ngoài khơi phía Đông châu Phi, quốc đảo có diện tích hơn 900.000 km2 này nhận được các chương trình trợ giúp kinh tế từ phía Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế phục vụ quá trình tư hữu hóa và tham gia vào Luật hỗ trợ phát triển châu Phi. Luật này cho phép hàng hóa từ các nước châu Phi được nhập khẩu vào Mỹ miễn thuế và không hạn chế về số lượng, song Madagascar vẫn gặp phải nhiều khó khăn nhằm đáp ứng những tiêu chuẩn do các tổ chức này đề ra. Nền kinh tế của quốc đảo này chủ yếu vẫn dựa vào ngành nông nghiệp với 80% dân số tham gia sản xuất. Năm 2011, GDP bình quân đầu người của Madagascar chỉ đạt 467 USD, đưa nước này vào danh sách 11 quốc gia có GDP bình quân đầu người dưới 500 USD.


    Dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa của Madagascar, Pháp có ảnh hưởng mạnh lên việc lập kế hoạch và chính sách kinh tế của đảo quốc, và cũng là đối tác thương mại chủ chốt. Các sản phẩm chủ lực được trồng rồi phân phối ra toàn quốc thông qua các hợp tác xã của nhà sản xuất và người tiêu dùng. Chính phủ có các sáng kiến như một chương trình phát triển nông thôn và các nông trại quốc doanh được thiết lập để thúc đẩy sản xuất các hàng hóa như lúa, cà phê, gia súc, tơ và dầu cọ. Sự bất mãn rộng rãi đối với các chính sách này là một yếu tố quan trọng trong việc khởi đầu Đệ Nhị Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa-Marxist. Dưới chế độ này, các ngành ngân hàng và bảo hiểm tư nhân trước đây bị quốc hữu hóa; độc quyền nhà nước được thiết lập trên các ngành công nghiệp như dệt may, bông, năng lượng; và thương mại xuất nhập khẩu và vận chuyển hàng hải nằm dưới quyền kiểm soát của nhà nước. Kinh tế của Madagascar xấu đi nhanh chóng do xuất khẩu giảm, sản xuất công nghiệp giảm 75%, lạm phát tăng vọt và nợ chính phủ tăng lên; mức sinh hoạt của dân số nông thôn suy giảm ngay sau đó. Hơn 50% thu nhập từ xuất khẩu của quốc gia được dành để chi trả nợ


    Hiện có 77% dân số nước này đang sống trong cảnh nghèo đói, thất học và chăm sóc ý tế yếu kém trong khi giá cả hàng hóa tại đây lại đang tăng gấp đôi.


    Thu nhập bình quân đầu người của Madagascar: 1.699 USD/người/năm

    Madagasca
    Madagasca



Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy