Top 17 Phát minh tình cờ về hóa học thú vị nhất

Phan Lang Onion 2943 0 Báo lỗi

Một số nhà khoa học phải cống hiến cả cuộc đời họ để phát minh ra một công cụ, phương pháp đột phá, mang tính cách mạng cho những vấn đề mắc phải trên thế giới ... xem thêm...

  1. Tháng 4 năm 1938, Tiến sĩ Roy J.Plunkett quyết định dùng tetrafloetilen làm khí sinh hàn cho máy lạnh với tin tưởng tạo ra một chất làm lạnh mới. Ông mở van bình thép chứa khí nén tetrafloetilen và không thấy khí thoát ra. Trong khi đó khối lượng bình lại không đổi. Ông bèn cưa đôi bình thép và nhận thấy một lớp polime bám chặt vào phía trong thành bình. Lớp polime ấy hơ nóng không chảy, trơ với mọi hóa chất mà ông thử. Đó chính là teflon và ông được nhận bằng sáng chế năm 1941.


    Thế nhưng vai trò của teflon chưa được tìm thấy mà cho đến khi tinh chế UF6 teflon mới tìm được ứng dụng. Và sau đó nó được dùng phổ biến trong công nghiệp hóa chất, máy móc...

    Teflon còn được làm lớp chống dính trên xoong chảo từ năm 1955. Sao lại có ý tưởng này? Đó là vì vợ của nhà phát minh ra nó không có tài nấu nướng và thường xuyên làm thức ăn cháy sém.

    Chảo chống dính
    Chảo chống dính

  2. Top 2

    Iot

    Những năm đầu thế kỉ XIX, nước Pháp dưới sự lãnh đạo của Napoleong tham vọng bành trướng lãnh thổ bằng quân sự. Vậy nên họ đẩy mạnh sản xuất kali nitrat (KNO3) để sản xuất thuốc súng. Mà để có KNO3 thì phải có kali cacbonat K2CO3. Sản phẩm này duy nhất điều chế tro của rong biển lúc bấy giờ.


    Nhà thầu khoán Coirtois khi lấy phần nước muối thải tác dụng với axit sunfuric đặc thì có hơi tím bay ra có mùi giống với clo. Và những hơi này kết tinh ngay thành những tinh thể đen óng ánh. Đó là iot.

    Vậy thì tại sao Coirtois lại đổ H2SO4 vào nước thải? Nguyên nhân thực sự nằm ở chú mèo của ông. Khi nghịch ngợm, chính chú mèo của ông ta đã làm đổ axit vào đống tro rong biển. Và như thế iot được tìm ra.

    Tinh thể Iot
    Tinh thể Iot
  3. Đây là một loại nhựa được phát minh tình cờ vào năm 1907 bởi nhà khoa học Mĩ gốc Bỉ Leo Baekeland (1863-1944).Từ năm 1905, ông bắt đầu nghiên cứu giữa phenol và formaldehyde.


    Đây là phát minh quan trọng mở đầu sự ra đời của hàng loạt loại nhựa. Nghe nói rằng một buổi làm việc, trong giờ nghỉ trưa, ông đã đánh đổ một chút formaldehyde và món bánh mì kẹp phô mai đặt trên ghế của ông. Và miếng phô mai biến thành chất dẻo.


    Nhựa bakelite tấm là một loại vật liệu đặc chắc được tạo ra bằng cách sử dụng nhiệt và áp suất lên các lớp giấy hoặc vải thủy tinh đã được ngâm tẩm với nhựa phenol. Các lớp mỏng này thường là giấy xenluloza, vải bông, vải sợi tổng hợp, sợi thủy tinh hoặc vải không dệt.

    Nhựa bakelite
    Nhựa bakelite
  4. Năm 1903, nhà hóa học Pháp Benedichtut sơ ý chạm phải một cái bình thủy tinh rỗng và làm nó rơi xuống sàn cách ba mét rưỡi. Ông rất ngạc nhiên khi bình thủy tinh không vỡ mà chỉ nứt ngang dọc. Hóa ra cái bình được dùng để đựng dung dịch nitroxenlulo tan trong ete, tức 1 chất keo. Khi khô lại chất keo tạo lớp màng mỏng bám chắc trong thành bình và dính chặt thủy tinh. Màng này ngăn cho lớp thủy tinh bị rạn nứt gắn với nhau. Nhưng chẳng bao lâu vì bận rộn mà ông quên mất chuyện này.


    Sau vài năm, thấy có nhiều vụ tai nạn mà hành khách bị thương do mảnh kính vỡ nát bay vào, ông nhớ lại câu chuyện vài năm trước và quyết định thử điều chế một thứ thủy tinh mới chống không vỡ tan thành mảnh sắc.


    Sau 2 năm kiên trì lao động, ông đã giải quyết xong xuôi. Khi dán dưới áp suất 2 tấm thủy tinh tường với màng mỏng trong suốt bằng xenluloit đặt giữa, ông đã có thứ thủy tinh mới không bị vỡ nát khi va chạm mạnh. Và đó là thủy tinh triplex mà thường lắp ở xe hơi.

    Kính triplex và sự bảo vệ
    Kính triplex và sự bảo vệ
  5. Trước khi ăn cần phải rửa tay, đặc biệt là với những người hằng ngày làm việc với hóa chất. Nhưng có một lần vi phạm quy tắc này lại có ích.


    Năm 1878, nhà hóa học Đức Constantin Fahlberg làm thí nghiệm với chất cresolsunfanid do nhà nữ hóa học Ana Vonkova điều chế. Do đãng trí, một hôm ông ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay trước. Và khi ăn ông cảm thấy miếng bánh ngọt lạ thường. Ông lập tức chạy vào phòng thí nghiệm và phân tích cẩn thận chất lỏng trong bình mà ông đã đổ các dung dịch vô ích vào đó. Hóa ra trong bỉnh có chất lỏng mà ông không hề biết đến tạo ra trong thí nghiệm. Chất này được gọi là saccarin với độ ngọt gấp 5000 lần đường.


    Saccarin không thể thay đường làm thức ăn được vì cơ thể không đồng hóa được nó. Vậy nên nó có thể dùng để pha chế cho người mắc bệnh đường.

    Đường saccarin
    Đường saccarin
  6. Năm 1789, nhà hóa học Lavoisier lập danh sách 33 nguyên tố hóa học đương thời chia thành các nhóm khí, kim loại, phi kim. Các nhà khoa học đã dành cả thế kỉ sau này để tìm sơ đồ chính xác hơn. Năm 1829, Johann Dobereiner đã tập hợp được các nhóm bộ ba nguyên tố (triade) có tính chất hóa học giống nhau. Và ông nhận thấy khối lượng nguyên tử của nguyên tố giữa bằng trung bình 2 nguyên tố đầu cuối. Nhà hóa học Leopold Gmelin đã nghiên cứu và lập ra 10 bộ ba, 3 bộ bốn, và 1 bộ năm. Năm 1858, August Kekulé thấy Cacbon thường liên kết với 4 nguyên tử khác. Và quan niệm hóa trị được hình thành.


    Năm 1862, nhà hóa học Pháp Chancourtois đã sắp xếp các nguyên tố theo chiều tăng của khối lượng nguyên tử trên mặt hình trụ theo chiều xoáy ốc và đôi khi trên cùng đường sinh có thể tìm thấy dãy nguyên tố giống nhau. Nhưng do ông sử dụng các thuật ngữ địa chất hơn và không sử dụng giản đồ nên nó không nhận được chú ý. Năm 1864, Julius Lothar Meyer, một nhà hóa học Đức, công bố một bảng bao gồm 44 nguyên tố xếp theo hóa trị. Bảng này chỉ ra các nguyên tố với tính chất tương tự thường có chung hóa trị. Đồng thời, nhà hóa học William Odling cũng công bố một bảng sắp xếp 57 nguyên tố dựa trên khối lượng nguyên tử. Năm 1863 nhà hóa học Anh J. Newlands cũng đưa ra định luật bát bộ (Octave). Từ năm 1869, Dmitri Mendeleev mới xây dựng được bảng tuần hoàn.

    Bảng tuần hoàn mới thêm 4 nguyên tố mới: Nihonium (Từ Nihon là Nhật Bản); Moscovium (Từ Moscow); Tennessine (Bang Tennessine Mĩ); Oganesson (Nhà vật lí Nga Oganesson)
    Bảng tuần hoàn mới thêm 4 nguyên tố mới: Nihonium (Từ Nihon là Nhật Bản); Moscovium (Từ Moscow); Tennessine (Bang Tennessine Mĩ); Oganesson (Nhà vật lí Nga Oganesson)
  7. Năm 1854, Kekule đang ngồi ngủ gà ngủ gật trên một chiếc xe buýt. Bỗng ông thấy những nguyên tử nhảy múa trước mắt ông một cách hỗn độn. Khi tỉnh dậy, giấc mơ khiến ông nảy ra sáng kiến kì quái. Ông tạo nên các mô hình mô phỏng các liên kết của nguyên tử bằng những thanh nhỏ và quả bóng. Đó là sự ra đời của cấu trúc hóa học.


    Năm 1863, Kekule tưởng chừng đang rất thuận lợi với nghiên cứu về các cấu hóa học của mình thì ông gặp rắc rối với benzen vì nó không tương thích với công thức của ông. Ông lim dim ngủ gật và thật kì lạ, ông mơ thấy một con rắn tự cắn đuôi của nó. Và ông đã tỉnh dậy với sáng kiến tuyệt vời: benzen có cấu trúc vòng!


    Benzene là một hợp chất hữu cơ có công thức hoá học C6H6. Benzen là một hyđrocacbon thơm, trong điều kiện bình thường là một chất lỏng không màu, mùi dịu ngọt dễ chịu, dễ cháy. Benzen tan rất kém trong nước và rượu. Vì chỉ chứa carbon và hydro nên benzene là một hydrocarbon. Benzen cũng có khả năng cháy tạo ra khí CO2 và nước, đặc biệt có sinh ra muội than.

    Cấu trúc hóa học
    Cấu trúc hóa học
  8. Năm 1896, nhà vật lí Henri Becquerel bị thu hút bởi hai điều, đó là huỳnh quang tự nhiên và tia X. Ông đã tiến hành một loạt các thí nghiệm để xem xét khả năng sản xuất đèn huỳnh quang của các khoáng chất tự nhiên sau khi chúng được tách rời khỏi ánh sáng mặt trời.


    Tuy nhiên, Henri Becquerel đã tiến hành thí nghiệm vào mùa đông và suốt một tuần liền, bầu trời u ám. Vì vậy, ông đã để các thiết bị cùng với nhau trong một ngăn kéo và chờ đợi ngày nắng. Đến một ngày nắng làm việc trở lại, Henri đã phát hiện ra rằng đá uranium mà ông để trong ngăn kéo đã in dấu của nó lên một tấm ảnh mà không tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Henri đã làm việc với Marie, Pierre Curie và phát hiện ra đó là chất phóng xạ.


    Phóng xạ là hiện tượng một số hạt nhân nguyên tử không bền tự biến đổi và phát ra các bức xạ hạt nhân (thường được gọi là các tia phóng xạ). Các nguyên tử có tính phóng xạ gọi là các đồng vị phóng xạ, còn các nguyên tử không phóng xạ gọi là các đồng vị bền. Các nguyên tố hóa học chỉ gồm các đồng vị phóng xạ (không có đồng vị bền) gọi là nguyên tố phóng xạ. Các tia phóng xạ có từ tự nhiên có thể bị chặn bởi các tầng khí quyển của Trái Đất.

    Hiện tượng phóng xạ
    Hiện tượng phóng xạ
  9. Thời kỳ chiến tranh lần thứ nhất, nhà khoa học Anh là Brearley được giao nhiệm vụ nghiên cứu cải tiến vũ khí, đặc biệt là vấn đề các nòng súng bị mài mòn rất nhanh. Brearley cố nghĩ cách chế ra hợp kim không dễ mài mòn để chế tạo súng. Năm 1913, ông đã thử pha crom vào thép, song chưa vừa ý vì lí do nào đó, bèn quẳng mẫu thử lẫn vào đống sắt gỉ ngoài phòng thí nghiệm.


    Rất lâu sau, tình cờ Brearley nhận thấy mẫu thử ấy vẫn sáng long lanh trong khi đống thép gỉ hết cả. Ông đem mẫu này nghiên cứu tỉ mỉ, thấy thứ thép pha crom này chẳng hề sợ môi trường, khí hậu hay thời tiết nào, ngay cả khi ngâm vào axit và kiềm! Năm 1913, Brearley đã được nhận bằng phát minh độc quyền của nước Anh. Ông đã tổ chức sản xuất thép không gỉ ở quy mô lớn và thực sự trở thành “người cha của thép không gỉ”.


    Thép không gỉ nổi bật nhất là khả năng chống ăn mòn, tăng lên khi tăng hàm lượng crôm. Bổ sung molypden làm tăng khả năng chống ăn mòn trong việc giảm axit và chống lại sự tấn công rỗ trong dung dịch clorua. Do đó, có rất nhiều loại thép không gỉ với hàm lượng crôm và molypden khác nhau để phù hợp với môi trường mà hợp kim phải chịu đựng. Khả năng chống ăn mòn và nhuộm màu của thép không gỉ, bảo trì thấp và độ bóng quen thuộc làm cho nó trở thành vật liệu lý tưởng cho nhiều ứng dụng đòi hỏi cả cường độ của thép và chống ăn mòn.

    Các sản phẩm từ thép không gỉ hay inox
    Các sản phẩm từ thép không gỉ hay inox
  10. Màu nhân tạo từ nhựa đường được phát hiện năm 1856 bởi thần đồng người Anh William Perkin (1838-1907). Và câu chuyện như sau:


    Khi 12 tuổi một người bạn đã trình bày cho Willian xem một và thí nghiệm hóa học, và sau đó cậu ta đã quyết định tự làm thí nghiệm. Vài năm sau cậu ghi danh theo học tại Trường Khoa học Tự nhiên Hoàng gia.


    Một ngày nọ vào kì nghỉ Lễ Phục sinh, William làm bài tập về nhà. Cậu gắng tìm cách sử dụng các thành phần trong nhựa đường để tạo ra thứ thuốc kí ninh chống sốt rét. Kết quả là món đồ màu đen kịt. William nhỏ thêm cồn vào chất đó và nó kết lại thành màu hồng tím tuyệt đẹp và là một chất hoàn toàn mới. Perkin đã tìm cách chuyển nó thành thuốc nhuộm. Và nó rất hợp để nhuộm lụa. Ông gửi tấm khăn lụa tới một hãng tại Scotland và họ đã khuyến khích Perkin nghiên cứu tiếp. Perkin đã thuyết phục mở một công ti sản xuất thuốc nhuộm tên là Mauvien. Mauvien hay người ta gọi là màu tím Perkin nổi danh và trở thành thời trang. Ai cũng muốn mặc nó và thậm chí nó còn được dùng để in tem thư. William trở nên giàu có tới mức khi mới 35 tuổi ông có thể an tâm về hưu.


    Năm 1869, ông phát hiện thuốc nhuộm màu đỏ nhưng một nhà khoa học Đức đã nhanh hơn ông 1 ngày!

    William Perkin
    William Perkin
  11. Ở châu Âu lần đầu tiên cao su được biết đến là năm 1496 do các đoàn thám hiểm Tây Ban Nha đem về từ đảo Haiti. Và vào năm 1819, kĩ sư Anh Mackintosh đã tình cờ tạo ra áo mưa. Và áo mưa, ủng cao su trở nên phổ biến. Nhưng vào những ngày ấm nắng, chúng bị dính bệt và bốc mùi khó chịu. Và điều đó dẫn đến sự phá sản xí nghiệp đầu tiên trong lịch sử công nghiệp cao su do Mackintosh tổ chức. Vậy nên các tổ chức kinh doanh phát động phong trào tìm cách làm cao su bền chắc.


    Goodyear cầm trong tay mảnh cao su nhỏ. Anh rất quan tâm đến việc làm cao su trở nên bền chắc dù chỉ là một tay buôn sắt vụn, mặc kệ sự chế giễu của bạn bè. Mười năm lao động với hao phí nhiều đô la. Việc này làm vợ của anh bực dọc và liên tục khuyên can chồng của mình. Được rồi vợ yêu, anh chỉ thử một lần nữa thôi! Nếu không được gì, anh thề sẽ vứt nó đi. Goodyear cắt một mẩu cao su để thí nghiệm. Vô ý anh làm rơi lá cao su mỏng và nó rơi đúng vào hỏa lò đang nóng. Những miếng cao su ở nhiệt độ bình thường phải rắc bột lưu huỳnh để khỏi dính lại. Nếu dưới mặt trời nó đã mềm ra thì...Anh cầm tấm cao su lên và kinh ngạc: Không những không hỏng mà nó còn chắc hơn lại đàn hồi. Phải chăng là do bị đốt nóng mà không phủi sạch lưu huỳnh? Thử lại xem sao. Anh cắt mẩu cao su, rắc bột lưu huỳnh lên và bỏ vào hỏa lò, lật đi lật lại. Và một lần nữa, miếng cao su co giãn rất tốt. Ôi, lại đây em thân yêu, hình như được rồi đấy!


    Cao su lưu hóa khác cao su thường ở tính bền và đàn hồi. Việc tìm ra cao su lưu hóa đã khởi đầu rực rỡ cho công nghiệp cao su.

    Các nguyên tử lưu huỳnh thâm nhập vào trong cao su sẽ nối (khâu) các phân tử cao su lại với nhau và biến thành cao su lưu hóa
    Các nguyên tử lưu huỳnh thâm nhập vào trong cao su sẽ nối (khâu) các phân tử cao su lại với nhau và biến thành cao su lưu hóa
  12. Năm 1936, Gerhard Schrader và nhóm của ông đã khám phá ra một loại “chất độc thần kinh" mới ở Đức trong khi được giao nhiệm vụ phát triển và nghiên cứu thuốc trừ sâu. Sau 2 năm nghiên cứu chuyên sâu, một hợp chất hữu cơ có độc tính cực mạnh ra đời và được đặt tên là "Tabun". Tabun độc đến nỗi trong một lần bất cẩn làm rơi một giọt xuống ghế phòng thí nghiệm, Schrader và các đồng nghiệp của ông ngay lập tức cảm thấy chóng mặt, co đồng tử và khó thở.


    Nhiều người cho rằng, bản chất chết người của loại chất độc thần kinh này sẽ khiến nhiều người phải bỏ mạng trong quá trình nghiên cứu. Nhưng trên thực tế, chính nhà hóa học người Đức tên là Gerhard Schrader và nhóm của ông mới là nạn nhân khi phải đối diện với nhiều nguy hiểm đến tính mạng như khó thở, mất khả năng nghe nhìn tạm thời khi nỗ lực làm việc với hy vọng chấm dứt nạn đói trên thế giới. Làm việc cho IG Farben, trong một phòng thí nghiệm ở Leverkusen với nhiệm vụ tạo ra loại thuốc trừ sâu mới, Schrader đã tình cờ phát hiện ra một hợp chất không màu vô cùng độc được cho là có tác dụng cực kỳ hiệu quả trong việc tiêu diệt côn trùng.


    Tuy nhiên, sau một thời gian phát hiện, nhóm nghiên cứu của Schrader đã nhận thấy độc tính quá lớn của Tabun bởi chỉ cần một giọt nhỏ của chất này rò rỉ ra ngoài cũng đã gây ảnh hưởng xấu đến con người. Trong Thế chiến II, Đức quốc xã đã triệu tập Schrader về tập trung nghiên cứu với mục đích phát triển và sản xuất Tabun như một loại vũ khí hóa học.

    Chất độc Tabun
    Chất độc Tabun
  13. Vào năm 18 tuổi, trong một nỗ lực nghiên cứu để chữa trị căn bệnh sốt rét, nhà hóa học William Perkin đã sáng tạo ra một thứ không liên quan gì đến khoa học và một thứ cực kì có ý nghĩa với khoa học. Đó là vào năm 1856, Perkin cố gắng để tạo ra những mẫu kí sinh nhân tạo. Kết quả ông thu được là một dung dịch màu đen. Khi quan sát chúng, Perkin đã nhận ra một màu sắc rất đẹp trong mớ dung dịch màu đen đó. Và ông phát hiện ra rằng mình đã tạo ra thuốc nhuộm tổng hợp đầu tiên.


    Loại thuốc nhuộm này tốt hơn nhiều lần so với thuốc nhuộm từ tự nhiên. Màu sắc sáng hơn, sống động hơn, không bị phai hoặc mờ khi rửa. Phát hiện của ông cũng trở thành tiền đề cho một nền khoa học mới.


    Tuy nhiên, câu chuyện vẫn chưa kết thúc ở đây. Paul Ehrlich, một nhà vi khuẩn học người Đức, người được Perkin truyền cảm hứng đã từ thuốc nhuộm mà phát hiện ra các phương pháp miễn dịch và hóa trị trong y học.

    Thuốc nhuộm
    Thuốc nhuộm
  14. Nhà phát minh: Albert Hofmann, Chuyên gia hóa học. Mục đích ban đầu, ông đang trong quá trình nghiên cứu chất dẫn xuất của acid kết tinh từ nấm cựa lúa mạch (LSD) trong phòng thí nghiệm tại Basel, Thụy Sỹ năm 1938. Hoffman tình cờ nuốt một lượng LSD trong lúc mải xem xét những đặc tính của nó. Sau đó ông đã khởi đầu cho một thời kỳ lan tỏa rộng khắp của loại ma túy này, trở thành một mặt hàng thường xuyên của thế giới ngầm.


    Ở liều điều trị, ergotamin gây co mạch ngoại vi (nếu trương lực mạch giảm) chủ yếu do kích thích thụ thể alpha - adrenergic, tuy nhiên, thuốc gây giãn mạch ở các mạch có trương lực rất cao). Một số hiệu ứng cảm giác có thể bao gồm: màu sắc trở nên rực rỡ, các vật thể và bề mặt xuất hiện để gợn sóng hoặc "như đang thở", xuất hiện những hình ảnh đầy màu sắc khi nhắm mắt, mất khái niệm về thời gian (thời gian dường như kéo dài, lặp đi lặp lại, hoặc dừng lại) và làm biến đổi hình dáng các vật thể. Một số người dùng, bao gồm cả Albert Hofmann ghi nhận rằng có vị kim loại rất rõ trong suốt thời gian sử dụng LSD.

    LSD
    gây ra cảm giác sống động về cảm giác, cảm xúc, ký ức, thời gian và nhận thức trong 6-14 giờ, tùy thuộc vào liều lượng và cách hấp thụ. Nói chung, bắt đầu trong vòng 30 đến 90 phút sau khi ăn phải, người dùng có thể trải nghiệm sự thay đổi nhận thức. Những thay đổi về nhận thức thính giác và thị giác là điển hình. Các hiệu ứng hình ảnh bao gồm ảo giác chuyển động của các bề mặt tĩnh ("bức tường như đang thở"), sự xuất hiện của các mô hình hình học chuyển động với màu sắc sặc sỡ (đặc biệt khi nhắm mắt), tăng cường màu sắc và độ sáng của vật thể được nhìn, xuất hiện các vật thể lạ và tầm nhìn bị mờ.

    Ma túy gây ảo giác LSD
    Ma túy gây ảo giác LSD
  15. Nhà phát minh: Patsy Sherman, Chuyên gia hóa học tại 3M. Mục đích ban đầu: Năm 1953, Sherman đã được nhận vào làm việc cho một dự án phát triển ứng dụng của cao su có khả năng không bị ăn mòn và phân hủy khi tiếp xúc với nhiên liệu của máy bay phản lực.


    Một trợ lý của cô vô tình đánh đổ dung dịch thí nghiệm của Sherman lên giày của mình. Sau đó, cô nhận rằng trong khi hầu hết giày của cô trợ lý bị bẩn xung quanh thì chỗ bị đổ vào lại "miễn nhiễm". Sau đó, Sherman đã tái kế hoạch dự án và tập trung nghiên cứu hợp chất kháng khuẩn trên, được biết tới với cái tên Scotchgard.

    Dung dịch chống bám bẩn
    Dung dịch chống bám bẩn
  16. Khi Harry Coover Jr. tìm ra keo siêu bền thông qua hàng loạt thử nghiệm để tìm ra một ống kính trong suốt dành cho súng vào thế chiến thứ 2. Ông đã thử nghiệm qua một họ hóa học gọi là acrylat, nhưng thấy công thức của mình quá dính và bỏ qua hợp chất đó.


    Vào năm 1951, Coover đã xem xét lại họ acrylat này nhằm phát triển một lớp chống nhiệt cho buồng lái máy bay. Một ngày, đồng nghiệp Fred Joyner đã phết hợp chất acrylat vào giữa hai thấu kính để xét nghiệm bằng một khúc xạ kế, nhưng đột nhiên không thể tách nó ra nữa. Coover đã nhìn ra được triển vọng của nó từ tai nạn này, và sau vài năm nó được bày bán trên thị trường với tên Super Glue (Keo siêu bền).

    Keo siêu bền
    Keo siêu bền
  17. Một nhà giả kim thuật người Đức, Hennig Brand đã tình cờ ra phát hiện ra "phốt pho" vào năm 1669 trong khi đang thực hiện thí nghiệm cô cạn nước tiểu để biến những thứ kim loại không quý thành vàng.


    Mặc dù Brand không thể hoàn thành mục tiêu ban đầu của mình là chuyển nước tiểu thành vàng song cuối cùng ông cũng đã khiến giới khoa học phải bất ngờ vì đã khám phá ra một chất cặn màu lục có thể phát sáng rực rỡ trong bóng tối, thứ mà chúng ta vẫn thường gọi là phốt pho - nguyên tố thứ 15 trong bảng tuần hoàn hóa học.


    Các nhà giả kim thuật đời trước đã thử nghiệm rất nhiều cách điều chế khác nhau với hy vọng có thể biến những thứ không phải vàng thành vàng. Năm 1669, một nhà giả kim của Đức tên là Hennig Brand đã tìm ra phốt pho trong một cuộc tìm kiếm như vậy.


    Trong thí nghiệm của mình, ông đã dùng khoảng 1.100 lít nước tiểu, dự trữ chúng trong nhiều ngày cho đến khi phát ra mùi khó chịu. Sau đó, ông cho đun sôi chỗ nước tiểu ở nhiệt độ cao, biến nó thành một hỗn hợp với hy vọng sẽ tạo ra chất có thể biến các kim loại thường thành vàng. Tuy nhiên, thay vì tìm ra được phương thức tinh chế vàng, nhà giả kim thuật Brandlại tìm thấy một chất cặn phát sáng kỳ lạ nằm ở dưới đáy bình cầu trong quá trình cô cặn nước tiểu.

    Phốt pho
    Phốt pho




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy