Top 8 Bài văn cảm nhận 8 câu giữa trong "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" hay nhất

Thai Ha 49 0 Báo lỗi

Đoàn Thị Điểm là người phụ nữ tài giỏi nhưng đến năm 37 tuổi bà mới lấy chồng. Nhưng khi vừa cưới ông Nguyễn Kiều thì ông phải đi xứ ở Trung Quốc. Trong thời ... xem thêm...

  1. Đoàn Thị Điểm là người phụ nữ tài giỏi nhưng đến năm 37 tuổi bà mới lấy chồng. Nhưng khi vừa cưới ông Nguyễn Kiều thì ông phải đi xứ ở Trung Quốc. Trong thời gian ông đi xứ bà sống cuộc sống như một người chinh phụ có lẽ thế nên khi dịch tác phẩm “Chinh phụ ngâm” bà có những sự đồng cảm sâu sắc với người chinh phụ. Tám câu thơ giữa của đoạn trích là nỗi sầu muộn triền miên dai dẳng.


    Nỗi buồn của người chinh phụ ngâm được diễn tả qua các cảnh vật xung quanh. Tiếng gà báo hiệu canh năm và hình ảnh người vợ thao thức suốt cả đêm nhớ chồng đi xa. Cây hòe phất phơ trong đêm gợi lên một cảm giác hoang vắng đáng sợ. Một đêm dài thao thức ngỡ như cả một năm trôi qua. Qua việc sử dụng biện pháp so sánh tác giả muốn nhấn mạnh thời gian một đêm dài lê thê, làm cho nỗi buồn của người chinh phụ thêm trĩu lại, kéo dài thêm thời gian lắng động khiến ta cảm nhận không gian như mênh mông hơn. Từ cách cảm nhận thời gian của người chinh phụ có thể thấy nàng đang trong tâm trạng sầu muộn, lo âu khắc khoải. Nỗi buồn của nàng nặng trĩu, dai dẳng theo thời gian, sâu và rộng như biển cả. Ngoại cảnh góp phần diễn tả tâm trạng của người chinh phụ, vì vậy được tác giả gợi tả khá kỹ. Mọi âm thanh cảnh vật, tâm trạng con người đều được tác giả chọn lựa từ ngữ cẩn thận, trau chuốt. Tâm trạng u sầu của người chinh phụ đã lan khắp không gian, nỗi buồn như gắn liền với ngoại cảnh... Cặp từ láy “đằng đẵng - dằng dặc” nếu như so với bản gốc thì không có. Trong bản dịch Nôm của Đoàn Thị Điểm bà không chỉ dịch sát nghĩa mà còn thể hiện sự sáng tạo của mình cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn, tâm tư sầu muộn cứ kéo dài, dai dẳng không có điểm dừng.


    Người chinh phụ đốt hương, soi gương, gảy đàn với mong muốn quên đi nỗi sầu. Nhưng từ gượng xuất hiện ba lần nhấn mạnh sự miễn cưỡng phải làm một cách gượng gạo, chán chường, có phần uể oải, rầu rĩ. Nàng đi đi lại lại ở hiên nhà, rồi vào phòng kéo rèm trông tin của chim thước nhưng chẳng thấy đâu. Các hành động cứ lặp đi lặp lại cho thấy sự bế tắc trong lòng nàng. Đến đây nỗi buồn xa cách còn cộng thêm cả sự lo lắng. Bởi theo quan niệm của người xưa “dây uyên kinh đứt”, “phím loan ngại ngùng” báo hiệu sự không may mắn của tình cảm vợ chồng. Người chồng đi chiến trận không biết bao giờ mời trở về càng khiến nàng đau khổ và cô đơn hơn.Đây là biểu hiện của tình yêu, tình cảm vợ chồng son sắt, người vợ ngày đêm luôn một lòng nghĩ về chồng. Liên hệ với bài thơ Khuê oán của Vương Xương Linh, cũng trong hoàn cảnh chồng đi chinh chiến xa nhà bài thơ nói lên nỗi sầu oán của người thiếu phụ đồng thời phê phán những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã gieo đau khổ, chết chóc và giết chết tuổi xuân của nàng trong thầm lặng. Từ đó thấy được chủ nghĩa nhân đạo thể hiện sâu sắc trong hai tác phẩm này.


    Tám câu thơ là những cung bậc cảm xúc là các sắc thái của sự cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ. Khát khao của nàng như bao người phụ nữ khác là được hạnh phúc bên chồng của mình. Người chinh phụ được tác giả đặt vào thiên nhiên để mượn hình ảnh thiên nhiên cho nàng dãi bày tâm trạng. Đây là cái tài của nhà thơ trong việc sử dụng các biện pháp ước lệ tượng trưng.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Bài tham khảo số 1

  2. Đặng Trần Côn là nhà văn đã nói lên được những cảm xúc và tâm trạng của những người thiếu phụ khi phải chịu những cảnh cô đơn, buồn tủi, những cảm xúc đó đang bao trùm lên toàn bộ sáng tác của ông, nổi bật lên trong sáng tác đó là cảnh lẻ loi của người chinh phụ.


    Gà eo óc gáy sương năm trống

    Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

    Khắc giờ đằng đẵng như niên

    Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

    Hương gượng đốt hồn đà mê mải

    Gương gượng soi lệ lại châu chan

    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

    Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng


    Những cảm xúc đang dần biểu lộ lên những xúc cảm mạnh mẽ và day dứt nhất trong tâm hồn của mỗi con người, những điều đó đã tạo nên được nhiều cảm xúc trong tâm hồn của tác giả, luôn luôn phải biết làm nên những điều có ý nghĩa khi tác giả đã vẽ ra những tâm trạng và khắc khoải những dòng tâm trạng đó, nhiều cảm xúc và hình thức đó được tạo nên nhiều cảm xúc của riêng chính con người của tác giả về cuộc đời và điều đó làm nên những giá trị trong việc khắc sâu thêm dòng tâm trạng điển hình và mênh mông trong tâm hồn của con người.


    Những tiếng gà eo óc đang gay trong những năm sương và đang trống vắng trong khoảng trống tâm hồn của chính tác giả về những năm tháng xa cách tình cảm lẻ loi, và không có sự gắn bó, nó tạo dựng nên những cảm xúc xa vắng và đang làm gia tăng lên những nhịp cảm to lớn và đang ẩn chứa bao dòng tâm trạng lớn lao và mênh mang về con người, tâm trạng đó đã khắc khoải, cảm giác cô đơn, lẻ loi, và bóng dáng của họ chỉ đơn chiếc như những tấm tà chiều, đơn côi trong ngày dài lê thê, những cung cách trong đó đã mang đậm những giá trị lớn lao và tạo dựng nên nhiều cảm xúc to lớn khi chúng ta nhìn thấy hình ảnh xa xôi và đơn bóng một mình:


    Gà eo óc gáy sương năm trống,

    Hòe phất phơ rũ bóng bốn bên

    Khắc giờ đằng đẵng như niên,

    Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.


    Những tiếng gà gáy năm trống nhưng người chinh phụ vẫn đơn bóng trong phòng của mình, với những hình bóng bốn bên phơ rũ không còn sức sống, những thời gian dài khắc khảo như niên, năm tháng đã trôi qua nhưng tình cảm đó đã mang nặng những tình cảm và nỗi nhớ thương với người chồng, người yêu của mình, thời gian xa vắng nhưng nỗi buồn đó thì mênh mang và dằng dặc tựa như miền biển xa, nó xa xôi và cách trở lòng người, làm cho tâm hồn của những người chinh phụ héo mòn đi những sức sống và tình yêu của chính mình, khi cứ phải chờ đợi và khắc khoải những nỗi nhớ mong. Những tiếng gà đang gáy và mong mỏi đến trời sáng để cho những nỗi nhớ mong đó bị giảm nhẹ đi, nhưng tình cảm của con người dường như vẫn không thể thoát khỏi trong cái không gian đó, tình cảm mặn nồng và nó đã có tác động lớn lao đối với con người trong cả bầu không gian rộng của thiên nhiên của những cảnh vật.


    Trong những cảnh giới đó, con người dường như đang phải trải qua những thời kì cô đơn và hiu quạnh nhất của lòng người, những gượng ghịu trong những cung đàn và cầm gảy những nỗi lòng, nhưng rồi những phím đàn đó cũng đã thể hiện được rất chi tiết những tình cảm và sự mặn nồng trong tình yêu mặc dù, vẫn luôn phải chờ mong và thương nhớ:


    Hương gượng đốt hồn đà mê mải,

    Gương gượng soi lệ lại châu chan.

    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.


    Tâm hồn của những người chinh phụ đang mê sắc trong những nỗi nhớ, và đang soi mình trong chiếc gương, để rồi những giọt lệ rơi ra, cầm đàn mà gẩy nhưng tâm trạng đang trĩu nặng, những dòng cảm xúc đó đang dần khắc sâu và ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với mỗi con người khi đọc những dòng thương nhớ của chính tác giả, về cảm xúc và tâm trạng của những người thiếu phụ.


    Những hình bóng cô đơn, và mang những dòng cảm xúc chan chứa những nỗi chứa chan và mang trong lòng người những cảm xúc của con người, những cảnh vật như chiếc bóng cô đơn, và in dấu trong những nỗi đau xé lòng về tâm trạng của những người chinh phụ cô đơn, lẻ loi. Hình ảnh người thiếu phụ đang đơn chiếc trong hình bóng cô đơn và lẻ loi đơn bóng của mỗi ngày, đó là điều buồn bã và tủi hờn nhất.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Văn học Việt Nam đã từng chứng kiến biết bao những cuộc chia li, tiễn biệt đầy lưu luyến như thế. Và ở thế kỉ thứ XVIII, “Chinh phụ ngâm” một tác phẩm lấy từ đề tài chia li trong chiến tranh đã của Đặng Trần Côn đã cho chúng ta thấy được một cuộc tiễn biệt thấm đẫm tâm trạng, đằng sau đó là nỗi đau người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Đoạn trích "Gà eo óc gáy sương năm trống, đến Dây uyên kinh dứt, phím loan ngại chùng” đã làm nỗi bật lên nỗi lẻ loi cô đơn cùng những nhớ mong của người chinh phụ.


    Bức chân dung người phụ nữ ấy không chỉ gợi lên qua những bước chân, động tác, cử chỉ, qua gương mặt buồn rầu, qua dáng ngồi bất động trước ngọn đèn khuya mà còn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gian:


    “Gà eo óc gáy sương năm trống

    Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”


    Hình ảnh “bóng hòe phất phơ” suốt ngày dài cùng biện pháp lấy động tả tĩnh với sự xuất hiện âm thanh “tiếng gà eo óc suốt” đêm thâu như tô đậm nỗi cô đơn, triền miên của nhân vật trữ tình. “Eo óc” đó là âm thanh thưa thớt trong một không gian rộng lớn, hiu quạnh có cảm giác tang tóc, tang thương đã bộc lộ sâu sắc nỗi chán chường của chủ thể trong đêm thâu. Nàng đã thức trọn năm canh để nghe thấy tận sâu trong đáy lòng mình nỗi sầu, nỗi đau vô hình ấy. Từ láy “phất phơ” đã biểu đạt một cách tinh tế dáng điệu võ vàng của người chinh phụ, tâm trạng của một người vợ ngóng chờ từng chút hình ảnh của người chồng. Tâm trạng của nhân vật trữ tình như đang thấm đẫm, lan tỏa cả trong thời gian và xuyên suốt cả thời gian. Tác giả đã biến thời gian thành thời gian tâm lí, không gian thành không gian cảm xúc bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật so sánh trong hai câu thơ:


    “Khắc giờ đằng đẵng như niên

    Mối sầu dằng dặc tự miền biển xa”


    Câu thơ theo đúng nguyên tác của Đặng Trần Côn:

    "Sầu tựa hải

    Khắc như niên”


    Chỉ thêm hai từ láy “dằng dặc” và “đằng đẵng” nhưng sự chán chường, mệt mỏi kéo dài vô vọng của người chinh phụ trở nên thật cụ thể, hữu hình và có cả chiều sâu trong đó. Kể từ khi chinh phu ra đi, một ngày trở nên dài lê thê như cả một năm, những mối lo toan, nỗi buồn sầu như đông đặc, tích tụ đè nặng lên tâm hồn người phụ nữ đáng thương ấy. Từng ngày, từng giờ, từng phút người chinh phụ vẫn đang chiến đấu với nỗi cô đơn, chiến đấu để thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt của chính mình:


    “Hương gượng đốt hồn đà mê mải

    Gương gượng soi lệ lại châu chan

    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”


    Điệp từ “gượng” được điệp đi điệp lại ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo đã thể hiện sự nỗ lực vượt thoát ấy của người chinh phụ. Nàng gượng đốt hương để kiếm tìm sự thanh thản thì lại rơi sâu hơn vào cơn mê man. Nàng gượng soi gương để chỉnh trang nhan sắc thì lại chỉ thấy những giọt sầu. Nàng gượng tìm đến với âm nhạc để giải tỏa thì nỗi âu lo về duyên cầm sắt và tình loan phượng lại hiện hình. Dường như nàng đang mang trong mình quá nhiều những nỗi lo sợ, lo lắng, bởi thế, người chinh phụ không những không thể giải tỏa được nỗi niềm bản thân mà còn như chìm sâu hơn vào nỗi bi thương xót xa. Nỗi cơ đơn, lẻ loi của người chinh phụ được đã đặc tả bằng bút pháp trữ tình đa dạng để độc giả có thể cảm nhận được tâm trạng ấy của nhân vật trữ tình ngay cả khi ngày lên cũng như khi đêm xuống, luôn đồng hanh cùng người chinh phụ cả khi đứng, khi ngồi, lúc ở trong phòng và ngoài phòng và bủa vây khắp không gian xung quanh. Sự cô đơn ấy đã làm hao gầy cả hình dáng và héo úa cả tâm tư và người chinh phụ như đang chết dần trong cái bọc cô đơn ấy.


    Chỉ mới 8 câu thơ thôi nhưng mà ta dường như đã được trải nghiệm một cuộc sống hay chỉ là sự tưởng tượng một phần nỗi cô đơn, nhớ mong người chồng chốn sa trường của người chinh phụ. Nỗi đau này còn tố cáo chiến tranh của chế độ phong kiến xưa, làm chia rẽ lứa đôi hạnh phúc. Qua đó ta cũng cảm nhận được một phần nào đó cái khát khao quyền hạnh phúc của con người.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Bài tham khảo số 3
  4. "Chinh phụ ngâm ” có nhiều đoạn thơ diễn tả nỗi cô đơn, sầu muộn, buồn khổ của người chinh phụ. Đây là một đoạn thơ thể hiện tâm trạng ấy của người phụ nữ đáng thương thời chiến tranh, loạn lạc:


    "Gà eo óc gáy sương năm trống,

    ..........

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”


    Người chồng ra trận mãi chưa về, đã 3, 4 năm trên sa trường để lại người vợ trẻ phải trải qua những ngày tháng dài cô đơn và sầu muộn. Nàng ngồi lặng lẽ một mình trong phòng khuê chỉ lặng lẽ một thân một mình, cô đơn lẻ bóng. Chẳng có ai, chẳng biết cùng ai để giãi bày tâm sự. Chinh phụ thao thức suốt đêm. Lắng nghe tiếng gà “eo óc ” gáy trong sương cùng tiếng trống canh năm. Bốn bên chỉ nhìn thấy bóng hòe “phất phơ”. Từng khắc, từng giờ dài thêm ra “đằng đẵng như niên”.Mối sầu thì dài thêm “dằng dặc tựa miền biển xa”.


    "Gà eo óc gáy sương năm trống,

    Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

    Khắc giờ đằng đẵng như niên,

    Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”.


    Các từ láy (eo óc, phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc) có giá trị gợi tả cảnh vật, thời gian, làm tăng sự biểu cảm nỗi cô đơn và tâm trạng thao thức của người chinh phụ. Hai so sánh về thời gian “đằng đẵng như niên ”, "dằng dặc tựa miền biển xa" đã cực tả nỗi buồn lê thê suốt đêm ngày, đúng là "ba thu dọn lại một ngày dài ghê!" (Truyện Kiều).


    Sầu tủi, buồn chán rồi e ngại và lo sợ, "gượng” đốt hương, "gượng” soi gương, rồi "gượng” gảy đàn. Buồn chán ngán và mỏi mệt. Nước mắt “chứa chan” thấm đầy gối, tràn đầy mi. Các từ ngữ: "kinh ”, “ngại", cùng điệp ngữ “gượng " đã cực tả nỗi buồn chán nản, đau khổ, lo sợ của nàng chinh phụ. Tâm hồn thì “mê mải” chân tay thì rụng rời:


    ‘‘Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,

    Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.

    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”


    Nhạc điệu vần thơ song thất lục bát réo rắt, triền miên như nỗi buồn cô đơn da diết, dằng dặc, đằng đẵng trong lòng người chinh phụ. Các từ láy, các so sánh được sử dụng tài tình để khắc hoạ nội tâm nàng chinh phụ. Lời thơ đẹp, ngôn ngữ trau chuốt. Ngoại cảnh như thấm nỗi buồn cô đơn, đau khổ của lòng người.


    Chiến tranh phong kiến đã “dãi thây trăm họ nên công một người”. Trên chiến địa thì "hồn tử sĩ gió ù ù thổi”... Ở Mọi chốn làng quê, những người mẹ già, người vợ trẻ đã lo lắng, chờ mong. Đoạn thơ giàu giá trị nhân đạo đã nói lên cái giá nặng nề mà người chinh phụ phải trả. Vì thế đoạn thơ mang ý nghĩa tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa vô nghĩa đã gây ra bao đau khổ cho nhân dân.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Bài tham khảo số 4
  5. Chinh phụ ngâm là một tác phẩm tiêu biểu của Đặng Trần Côn được sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Vừa mới ra đời tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn và đến khi có bản dịch nôm của Đoàn Thị Điểm thì tác phẩm này lại trở nên nổi tiếng hơn bao giờ hết. Bài thơ nói về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ khi người chinh phu ở chiến trường xa xôi. Tất cả những tình cảm đó đã lan tỏa, thấm đẫm vào cảnh vật:


    “Gà eo óc gáy sương năm trống,

    Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.

    Khắc giờ đằng đẵng như niên,

    Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”


    Tiếng gà là cái động đã được sử dụng để miêu tả cái tĩnh tại của thiên nhiên, nỗi cô đơn của con người. Nàng đã thức trọn năm canh để nghe thấy tận sâu trong đáy lòng mình nỗi sầu, nỗi đau vô hình ấy. Từ láy “phất phơ” đã biểu đạt một cách tinh tế cái dáng điệu, cái tâm trạng của một người vợ ngóng chờ từng chút hình ảnh của chồng. Đặc biệt hình ảnh cây hòe “rủ bóng” sà xuống như ẩn chứa trong đó cái dáng vẻ tiều tụy của người chinh phụ. Dáng vẻ cô độc của người chinh phụ như bị chìm lấp giữa không gian ấy.


    Ở những dòng thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:


    “Hương gượng đốt hồn đà mê mải,

    Gương gượng soi lệ lại châu chan.

    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”


    Điệp từ “gượng” được điệp đi điệp lại ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo đã thể hiện sự nỗ lực vượt thoát của người chinh phụ. Dường như nàng đang cố tìm sự thanh thản nơi tâm hồn nhưng lại càng rơi sâu hơn vào cơn mê man. Gượng tìm đến gương thì lại rơi lệ sầu, gượng tìm đến nhạc lại càng rơi ào lo âu. Chạm đến đâu cũng chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi của chính mình. Nỗi sầu cô đơn như bủa vây, như ám ảnh người chinh phụ. Ở đây, tác giả đã sử dụng bút pháp trữ tình để đặc tả nỗi cô đơn của người chinh phụ. Con người mang trong lòng quá nhiều lo âu đã khiến chính bản thân mình như đang chết dần trong cái bọc cô đơn ấy.


    Đằng sau nỗi sầu thảm của người của người phụ nữ chính là hiện thực khốc liệt mà chiến tranh để lại. Bởi thế bài thơ không chỉ đơn thuần nói về tâm trạng của người phụ nữ ngày đêm mong ngóng chồng trở về từ nơi chiếng trường mà còn gián tiếp tố cáo chiến tranh và những gì mà nó đã gây ra. Đồng thời nó cũng thể hiện sự đồng cảm, xót xa, sự thấu hiểu của nhà thơ với người chinh phụ. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo ngời sáng của tác phẩm.


    Như vậy, bằng việc kết hợp khéo léo các biện pháp tu từ tác giả đã thành công miêu tả được thế giới nội tâm ẩn sâu bên trong của người chinh phụ đồng thời cũng cho người đọc thấy được hiện thực loạn lạc mà chiến tranh gây ra thời đó. Và tất cả những điều đó vừa thể hiện được tài năng vừa ngầm phản ánh tấm lòng của tác giả.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Bài tham khảo số 5
  6. Đặng Trần Côn - một danh sĩ, một nhà thơ kiệt xuất của nền văn học cổ điển “Chinh phụ ngâm khúc” chính là một trong những tuyệt tác của ông được viết bằng chữ Hán, được mọi người biết đến rộng rãi qua bản dịch của nữ danh sĩ Đoàn Thị Điểm.


    Đúng như cái tên đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” được đánh giá là một trong những trích đoạn hay nhất, đó không chỉ là lời tâm sự, nỗi nhớ của người chinh phụ mà hơn hết đoạn trích còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc, đặc biệt là 8 câu thơ giữa bài.


    "Gà eo óc gáy sương năm trống,

    Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
    Khắc giờ đằng đẵng như niên,

    Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa

    Hương gượng đốt hồn đà mê mải

    Gương gượng soi lệ lại châu chan

    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng."


    Căn phòng tưởng chừng rất rộng khi cả hai cùng chung sống nhưng nó đã trở lên tăm tối, tù túng khi mà chỉ còn mỗi người vợ đang cô đơn, khắc khoải nhớ chồng. Sự chờ đợi của người vợ tiễn chồng ra chiến trận tưởng chừng đã bao nhiêu kiếp trôi quan, nó u ám bao trùm lên cả con người cảm xúc của người chinh phụ


    “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

    Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

    Ngoài rèm thước chẳng mách tin

    Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”


    Giọng thơ man mác, nhịp thơ chậm càng làm cho người đọc có cảm giác như của nhân vật trữ tình. Hành động lặp đi lặp lại như nỗi nhớ cứ đong đầy mãi không thôi “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước” có phải chăng động từ “gieo” chính là ngụ ý của tác giả như muốn nói lên rằng bước chân thê lương dù không muốn bước nhưng vẫn bước. Không gian tĩnh lặng khiến tiếng bước chân càng nặng nề và cô đơn hơn. Ngày qua ngày đêm qua đêm nhưng nàng vẫn cô đơn một mình, nhớ thương người chồng đang ngoài biên ải xa xôi, “Ngoài rèm thưa rủ thác đòi phen.” -chiếc rèm kéo lên lại hạ xuống sao mà não nề đến thế nhưng dù rằng có như thế nào lòng nàng vẫn chỉ có hình một người mà thôi, dù bên ngoài có xảy ra chuyện gì đi nữa


    Nhưng sự chờ đợi đến cùng cực đó lại chẳng thấy dấu hiệu mừng vui, có vẻ như đã lâu lắm rồi “chim thước” chẳng ghé qua cho nàng chút hi vọng. Bên trong chiếc rèm kia chỉ có nàng với ngọn đèn leo lắt, nàng với cái bóng của chính nàng bầu bạn. nhưng đáp lại nỗi nhớ nhung, sự chờ đợi đến mỏi mòn của nàng chỉ là một bóng đêm im lặng đến đáng sợ. Mỗi câu thơ hiện lên không một dòng lệ nhưng người đọc có thể cảm nhận được một dòng lệ đang tuôn rơi trong lòng nàng… Chính nỗi nhớ chồng đến cồn cào đã làm nàng tưởng tượng, ôm lấy gối như tựa vào vai chồng, nỗi sầu muộn chia li chất đống có thể thổi được “thành cơm”


    Chính sự nỗi sầu muộn cô đơn, lẻ loi đó của nàng, mà nàng rất cần một người có thể sẻ chia và đồng cảm với tâm trạng của nàng lúc này


    “Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

    Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

    Buồn rầu nói chẳng nên lời,

    Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”


    Nàng không có ai để giãi bày nỗi lòng của mình, để giải tỏa được tâm trạng cô đơn, chỉ có cây đèn trong phòng. Nhưng chiếc đèn vô tri vô giác kia liệu có thấu hiểu được tấm lòng thủy chung của nàng, nàng chỉ có thể một mình chịu đựng nỗi nhớ nỗi cô đơn đến đau lòng một mình mà thôi “Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”. Hình ảnh chiếc đèn hiện lên đã chứng minh cái sự cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ


    “Buồn rầu nói chẳng nên lời,

    Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”


    “Buồn rầu nói chẳng nên lời,” Buồn quá chả buồn nói cũng chả muốn cười, nàng chỉ có một mình với hoa đèn đến đáng thương. Hoa đèn chính là tàn của bấc đèn vẫn còn được nung đỏ đến sáng rực, như lòng nàng đang cháy đến tàn đỏ như bấc đèn kia. Hình ảnh “Hoa đèn kia với bóng người khá thương.” càng làm người đọc thương cảm đến xót thương cho người phụ nữ lẻ loi


    Bút pháp nghệ thuật ước lệ kết hợp thể thơ song thất lục bát giọng thơ nhẹ nhàng thiết tha, nhịp thơ chậm đã thể hiện được tâm trạng với những mạch cảm xúc và cung bậc khác nhau của người chinh phụ, với nỗi nhớ chồng da diết, nỗi cô đơn với một khát khao cháy bỏng được sống hạnh phúc trọn vẹn. Đoạn trích cũng đã để lại giá trị nhân đạo sâu sắc, nhân văn cao cả khi lên án chiến tranh phi nghĩa, những khuôn phép hà khắc phong kiến thời bấy giờ.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Bài tham khảo số 6
  7. Chinh Phụ Ngâm là một trong những tác phẩm nổi tiếng của tác giả Đặng Trần Côn. Tác phẩm nói về nỗi buồn chia li của đôi lứa, nỗi đau của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Trong nền văn học Việt Nam thế kỉ 17 có rất nhiều tác phẩm về chia li nhưng có lẽ Chinh Phụ Ngâm là tác phẩm lấy đi nhiều cảm xúc nhất trong lòng người đọc. Đặc biệt 8 câu giữa bài Chinh Phụ Ngâm là cung đàn tiễn biệt cô đơn, lẻ loi , nhớ mong nhất của người Chinh Phụ.


    “Gà eo óc gáy sương năm trống,

    Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

    Khắc giờ đằng đẵng như niên,

    Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa

    Hương gượng đốt hồn đà mê mải

    Gương gượng soi lệ lại châu chan

    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”

    (8 câu giữa Chinh Phụ Ngâm)


    Từ xưa đến nay, lấy cảnh tả tình không còn là thủ pháp xa lạ: “Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ”. Khi con người ta tâm trạng buồn phiền thì sao có thể nhìn thấy cảnh đẹp. Cho dù xung quanh có đẹp thì cũng đều khoác lên màu u ám buồn bã. Trong đoạn giữa này cũng vậy, bức chân dung người phụ nữ Chinh Phụ không hề hiện lên bằng hình dáng cụ thể mà thông qua hình ảnh không gian, thời gian để miêu tả nỗi buồn:


    “Gà eo óc gáy sương năm trống

    Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”


    Hai câu thơ trên nói về thời gian canh khoe tiếng gà gáy óc eo và tiếng “hòe phất phơ” nghe mới buồn não làm sao. Trong cái không gian tĩnh lặng ấy là tiếng gà óc eo cô quạnh, âm thanh thưa thớt vang lên trong một không gian rộng lớn. Cho thấy thời gian đã về đêm, nỗi nhớ dài dằng dặc suốt đêm. Khi đêm xuống, người vợ mới lắng nghe được mọi cảm xúc của âm thanh xung quanh, những âm thanh ấy nó cũng buồn và cô đơn vô cùng. Tác giả đã dùng hình ảnh ước lệ để nói lên tâm trạng của người chinh phụ. Qua hai câu thơ chúng ta có thể hình dung ra bóng dáng cô đơn của người vợ, sự thờ ơ dài dằng dặc của đêm khuya và cảnh vật “rủ bóng bốn bên” buồn sầu não. Trong mắt người vợ chờ chồng, thời gian giờ dài quá, cảnh vật cũng u buồn theo. Câu thơ tuy không tả chi tiết hình ảnh người vợ, nhưng qua thời gian, không gian cho thấy nỗi buồn trùm kín tâm tư.


    Khắc giờ đằng đẵng như niên

    Mối sầu dằng dặc tự miền biển xa”


    Hai câu thơ tiếp theo các khắc thêm nỗi sầu đêm vắng. Đặc biệt tác giả sử dụng từ láy : “Đằng đắng và dằng dặc” như thể hiện sự chán chường, mệt mỏi kéo dài. Nghe có vẻ hữu hình mà thật cụ thể, tâm tư của người chinh phụ được miêu tả chi tiết, chính xác bằng những cụm từ láy ấy. Câu thơ nói rõ nỗi nhớ “miền biển xa” – đó chính là nỗi nhớ chồng, người đi không biết bao giờ trở lại. Chiến tranh khốc liệt, có thể vài năm, nhiều năm và mãi mãi. Người vợ có chồng đi chiến tranh không khác gì “ngồi trên đống lửa”, sinh li tử biệt, vậy nên nỗi nhớ mới da diết, dằng dặc, đếm từng giờ, từng phút.


    “Hương gượng đốt hồn đà mê mải

    Gương gượng soi lệ lại châu chan

    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”


    Đặc biệt trong 4 câu thơ tiếp theo là những hành động vô cùng gượng gạo. Khi nỗi nhớ đã trào dâng và cảm xúc điều khiển hành động, tất cả những việc mà người chinh phụ làm đều vô cùng gượng gạo, ép uổng. Động từ “gượng” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho thấy người chinh phụ đang cố gắng thoát ra khỏi nỗi cô đơn, nhưng cố gắng thế nào cũng vô cùng mệt mỏi. Nàng cô đốt hương, cố soi dòng lệ, cố gảy đàn nhưng đều thấy sự oan oái đớn đau. Cuộc sống hàng ngày vẫn phải diễn ra, nàng chỉ là đang cố diễn cho tròn vai nhưng vai diễn lại quá gượng gạo. Náng tìm đến gương để chỉnh nhan sắc lại chỉ thấy những giọt sầu. Nàng tìm đến âm nhạc để giải tỏa nỗi buồn thì lại nghĩ đến mối duyên cầm sắt và tình loạn phượng bế tắc hiện nay.


    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”


    Trong hai câu thơ trên cho thấy, tình duyên đứt đoạn, phím loan ngại ngùng. Vậy là người vợ xa chồng cũng đã biết được tương lai hoàn cảnh của mình, duyên bẽ bàng. Vợ chồng bên nhau ngắn ngủi vậy mà chiến tranh lại cướp mất người thương, cả đời phải sống với chữ “thủy chung” và “tam tòng tứ đức” giết chết cuộc đời và hạnh phúc người phụ nữ. Nhưng xã hội phong kiến với những hủ tục hà khắc làm sao có thể chống lại, làm sao có thể đòi quyền bình đẳng.


    Một phím đàn đứt ngang không khác gì một cuộc tình trái ngang. Nỗi cô đơn của người Chinh phụ đã được tác giả miêu tả dựa trên không gian, thời gian rất chi tiết và mang lại nhiều sự cảm thông sâu sắc của độc giả. Ta cảm thông cho số phận hẩm hữu của phụ nữ trong xã hội cũ, phải gánh trên mình “tam tòng tứ đức”, hạnh phúc lệ thuộc vào đàn ông và không được quyết định cuộc đời của mình bởi định kiến xã hội. Ta cảm thông cho nỗi cô đơn, bế tắc, oan trái của người chinh phụ. Nỗi cô đơn về người vợ mới có chồng đã li xa và không hẹn ngày trở lại.


    Trong 8 câu thơ giữa là nỗi cô đơn kéo dài đằng đắng, triền miên từ đêm này qua đêm khác, cảnh vật héo hon như chính tâm trạng người chinh phụ. Nỗi héo hon ấy đang giết chết tinh thần người vợ. Qua đây cho thấy sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nhân vật của mình. Nó cũng thể hiện khao khát về quyền bình đẳng, giải phóng người phụ nữ trong xã hội xưa.


    Khổ thơ giữa bài Tình cảnh lẻ loi người chinh phụ đã vẽ lên bức tranh tâm trạng về người chinh phụ khi có chồng ra chiến trận. Đồng thời nó cũng tố cáo chiến tranh phong kiến xưa đã chia rẽ đôi lứa và nói lên khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của phụ nữ trong xã hội xưa.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Bài tham khảo số 7
  8. Khác với giai đoạn đầu của văn học trung đại say sưa trong cảm hứng ca ngợi hùng tâm tráng chí của người anh hùng, ca ngợi những chiến công vĩ đại của cả dân tộc, thì đến những thế kỉ 18, 19 khi mà nhà nước phong kiến bắt đầu rơi vào khủng hoảng trầm trọng với sự diễn ra liên miên của các cuộc chiến tranh nội bộ, cướp đi sự bình yên của biết bao mái nhà, văn học lên ngôi và phát triển rực rỡ với cảm hứng nhân đạo, thay cho tiếng nói tha thiết về quyền sống của con người. Trong số đó phải kể đến “ Chinh phụ ngâm” của tác giả Đặng Trần Côn, được Đoàn Thị Điểm dịch lại. Đặc biệt nổi bật là 8 câu thơ giữa bài.


    Nếu như 8 câu đầu tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ thì 8 câu thơ tiếp theo nói về cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi:


    “Gà eo óc gáy sương năm trống

    Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”


    Những câu thơ hướng về ngoại cảnh còn là những câu thơ diễn tả nội tâm. Đêm nghe tiếng gà eo óc là âm thanh của tâm trạng, được lắng qua tâm tư nhức nhối, bức xót của nhân vật trữ tình suốt năm canh. Ngắm nhìn bóng hòe không phải là thời gian nhàn rỗi mà đó là hình ảnh người chinh phụ đang đếm từng thời khắc trôi đi.


    “Khắc giờ đằng đẵng như niên

    Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”


    Người chinh phụ có những cảm nghĩ về thời gian thật đặc biệt. So với nguyên tác, Đoàn Thị Điểm đã sáng tạo thêm những láy từ biểu cảm, một thời khắc đợi chờ dài tựa cả năm, mối sầu miên man tựa biển khơi được tâm lí hóa. Mối sầu hiện lên nặng trĩu, đằng đẵng, dằng dặc đến khôn nguôi, ôm trùm cả không gian. Trong trạng thái cô đơn sầu muộn, người chinh phụ gắng gượng để thoát khỏi sự cô đơn:


    “Hương gượng đốt hồn đà mê mải

    Gương gượng soi lệ lại châu chan

    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

    Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”


    Những gắng gượng để vượt thoát sự cô đơn rốt cuộc cuộc cũng chìm vào bi kịch. Đốt hương để căn phòng thêm ấm áp, xua tan sự giá lạnh. Gượng soi gương để tìm kiếm hình ảnh khác. Tìm đến tiếng đàn để cho lòng khuây khỏa. Thế nhưng, mọi nỗ lực của người chinh phụ dường như không được như mong muốn. Khi đốt hương thì càng chìm vào nỗi sầu miên man. Soi gương lại càng thấm sâu hơn tâm trạng cô đơn. Gắng đánh đàn những ngón đàn không thể vang lên, lo sợ dây đứt phím chùng - dấu hiệu không may mắn trong tình chồng vợ. Người chinh phụ xuất hiện sau khi tiễn chồng ra trận đã thấm thía cảm giác chờ đợi đến mòn mỏi và nỗi cô đơn đến héo úa tâm hồn trong tình cảnh lẻ loi. Sau trạng thái bế tắc đến cao độ, âm điệu của những câu thơ trở nên nhẹ nhõm, cảm xúc thơ tươi sáng hơn.


    Qua thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, tác giả đã thể hiện một cách tinh tế các cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ của người chinh phụ luôn khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Tám câu thơ giữa cũng thể hiện tấm lòng thương yêu và cảm thông sâu sắc của tác giả với khát khao hạnh phúc chính đáng của người chinh phụ.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy