Bài văn phân tích chất thơ trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường số 3
Hoàng Phủ Ngọc Tường quê gốc ở Quảng Trị, nhưng ông sinh ra ở Huế và cho đến tận cuối đời ông vẫn gắn bó với đất Huế. Có lẽ cũng chính vì thế mà nhà văn có một tình yêu và sự nghiên cứu rất sâu sắc về văn hóa, lịch sử, địa lý của xứ Huế, là cơ sở vững chắc để có những trang viết đặc sắc về Huế. Ông có sở trường ở thể loại bút ký thể hiện rõ lối tư duy phóng túng, liên tưởng mãnh liệt phong phú, ngôn ngữ trong sáng đẹp đẽ tài hoa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái chất trữ tình và trí tuệ, giữa nghị luận sắc bén và niềm suy tư đa chiều.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và chính luận, sử thi hóa lịch sử và khám phá chiều sâu văn hóa của đối tượng. Chất trữ tình trong bút kí của ông xuyên thấm vào tất cả và thăng hoa thành chất thơ của ngôn ngữ. Chất thơ trong tác phẩm được tạo nên từ nhiều yếu tố cảm xúc, cái đẹp, trí tưởng tượng, tính chất của cuộc sống và nhạc điệu của ngôn ngữ... Khó có thể tách các yếu tố này khỏi nhau bởi nó hòa quyện với nhau, trong từng hình ảnh, từ ngữ, câu văn, đoạn văn.
Chất thơ còn tỏa ra từ nhan đề bài kí gợi mãi những âm vang trầm lắng của dòng sông: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Nhan đề tác phẩm không chỉ có ý nghĩa ca ngợi mà còn thể hiện được niềm biết ơn của tác giả đối với những con người đã khai phá, xây dựng, làm đẹp vùng đất này, bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của non sông, đất nước. Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” gợi ra bao nhiêu vẻ đẹp của dòng sông nên không thể trả lời vắn tắt trong một vài câu mà phải trả lời bằng cả bài kí dài ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ về dòng sông.
Chất thơ thể hiện qua vẻ đẹp của thiên nhiên Sông Hương. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của bài văn là những xúc cảm sâu lắng được tổng hợp từ vốn hiểu biết phong phú về văn hóa lịch sử địa lý, văn chương với một văn phong tao nhã, hướng nội tinh tế, tài hoa, ngôn từ phong phú, gợi hình gợi cảm, có những câu văn giàu nhạc điệu, chất thơ. Các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được sử dụng rất hiệu quả khiến cho dòng sông Hương ở ngoài đời đã đẹp nhưng qua sự miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường trở nên đẹp bội phần.
Dòng sông như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của văn hóa, một vẻ đẹp đầy chất thơ. Bằng sự hiểu biết, sự gắn bó và tình yêu tha thiết với dòng sông Hương và xứ Huế, nhà văn đã khám phá và tô đậm vẻ đẹp của dòng sông. Nhà văn thường xuyên so sánh vẻ đẹp của sông Hương với những người con gái đẹp, từ đó phát hiện ra những vẻ đẹp tưởng chừng đối lập của dòng sông là vừa man dại, phóng túng vừa dịu dàng, say đắm; vừa thủy chung vừa đa tình; vừa kín đáo lại vừa lẳng lơ; vừa anh hùng, quật khởi nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” xứng đáng là một áng văn hay đặc sắc về xứ sở, về tình yêu quê hương đất nước và cũng rất tiêu biểu cho phong cách bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Dòng sông Hương trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho ai đã từng đọc qua đều mong muốn được một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong những gì nên thơ nhất của xứ Huế.
Trong bài bút kí này sông Hương đã được đặt trong một cái nhìn tổng thể và toàn diện: Lịch sử và văn hóa, sinh hoạt và phong tục, văn chương và đời sống, con người và thiên nhiên …Trong các mối liên hệ ấy, sông Hương vừa tươi đẹp, vừa thơ mộng và quyến rũ trong các sắc thái thiên nhiên vừa sâu lắng trong các giá trị văn hóa, vừa phong phú đến bất ngờ trong khả năng gợi hứng thú sáng tạo cho những người nghệ sĩ, vừa kiên cường bất khuất trong thế đứng và tinh thần khi đối diện với giặc ngoại xâm…Song dường như sau tất cả những điều đó, sông Hương vẫn mãi còn những điều bí ẩn chưa được khám phá hết nên vẫn mãi gợi niềm bâng khuâng trong tâm hồn con người. bài kí thể hiện “ cái tôi” của tác giả - một cái tôi tài hoa, uyên bác đầy mê đắm.
Chất thơ toát ra từ những câu văn, hình ảnh đẹp, đầy màu sắc và từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ thuật: “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, “lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ…”, "Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “những ngọn đồi này tạo nên nhiều mảng phản quang nhiều màu sắc”. “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
Tác giả sử dụng rộng rãi đặc sắc những phép tu từ gợi cảm vốn là sở trường của thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ: “Dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu, khúc quanh trước khi ra biển, như một nỗi vấn vương cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Những chi tiết về phong tục, lễ hội cũng trở thành họa, thành nhạc, thành tình, nghĩa là thành thơ. “Trăm nghìn cánh hoa đang bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trở về bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. Đặc biệt sông Hương luôn được so sánh với những người con gái đẹp.
Thi trung hữu nhạc đó là nhạc của lòng, trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng có nhạc, gợi nhớ nhạc “Điệu chảy lặng lờ của nó (sông Hương) ngang qua thành phố. Đúng là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Những câu văn trải dài, uyển chuyển, du dương mà tự nhiên, nhuần nhị như dòng sông, dòng nhạc đẹp, một "Đa Nuýp xanh” trong văn. Nhạc tính cũng được thể hiện rõ khi nhà thơ cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương trong mối liên hệ với nền âm nhạc Huế.
Chất trí tuệ và chất thơ kết hợp hài hòa trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo nên phong cách đặc sắc của nhà văn này.
Bút kí cuốn hút người đọc một phần ở việc, ở trí thức, sự việc lạ, trí thức mới nhưng nếu chỉ có thế, bài bút kí sẽ không hơn một bài báo và nó nhanh qua đi mà không đọng lại trong lòng người. Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường không giống như thế, nó đầy chất liệu quý, thể hiện một vốn sống, vốn văn hóa phong phú, nhất là về Huế. Hơn thế nó còn mãi, ngân mãi vì nó đầy chất thơ. Chất thơ ấy gắn với nhiều yếu tố, bắt đầu từ nhiều nguồn nhưng yếu tố quan trọng nhất, nguồn lớn lao, dào dạt nhất là tình yêu, tình yêu tha thiết với dòng sông, với Huế, với đất nước của tác giả.