Bài văn phân tích nhân vật Tràng trong buổi sáng hôm sau số 1
Kim Lân là cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Trong cả hai giai đoạn sáng tác (trước và sau Cách mạng tháng Tám), tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào ông cũng có những tác phẩm hay. Với tấm lòng của một người vốn là con để của đồng ruộng, Kim Lân đã viết về nông thôn và người nông dân bằng tất cả sự cảm thông và yêu thương chân thành. Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc của nhà văn. Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, viết về đề tài nạn đói năm Ất Dậu 1945, kể lại chuyện một thanh niên nghèo nhặt vợ giữa lúc đói quay đói quắt. Nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt đã khẳng định một phát hiện của Kim Lân về người lao động: Dù sống trong hoàn cảnh nào, dù đang ở trong vực thẳm của sự đói khát, họ vẫn luôn khát khao sống, khát khao hạnh phúc. Điều đó được thể hiện rõ qua đoạn trích: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào... tu sửa lại căn nhà.” Sự thay đổi của nhân vật Tràng trong buổi sáng hôm sau vợ về nhà đã tiếp nối mạch diễn biến của câu chuyện, đồng thời thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với nhân vật của mình cũng là sự trân trọng sâu sắc với những người dân nghèo khổ nhưng có khát khao sống mạnh mẽ.
Tác phẩm lấy bối cảnh xóm ngụ cư vào đỉnh điểm nạn đói năm Ất Dậu 1945. Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào. Xóm ngụ cư như một bãi tha ma, chẳng còn bóng dáng của sự sống. Trong hoàn cảnh ấy, Tràng - một thanh niên nghèo, kéo xe bò thu nuôi mình và nuôi mẹ già – lại lấy vợ. Việc Tràng nhặt vợ về đã làm nổi bật khao khát hạnh phúc, yêu thương của con người ngày đói. Trong hoàn cảnh đói khát, tăm tối, khi đang cận kề bên miệng vực của cái chết ấy, người lao động Việt Nam vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn lạc quan hướng tới tương lai. Điều này được thể hiện rất rõ qua tâm trạng của nhân vật Tràng vào sáng hôm sau, sau khi Tràng nhặt vợ về.
“Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Không phải là nỗi lo âu khi đối diện với thực tại đen tối trước mặt. Không phải là cảm giác hối hận khi đã nhặt vợ về giữa những ngày đói khát. Ta chỉ thấy tâm trạng nhẹ nhõm, khoan khoái của một người đàn ông đang tràn ngập niềm hạnh phúc lứa đôi. Tràng đang hạnh phúc, hạnh phúc lớn và đột ngột đến ngỡ ngàng, đến không thể tin được: “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải” Nhà cửa sạch sẽ, tinh tươm: “Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh.
Càng ngỡ ngàng hơn khi Tràng nhận thấy xung quanh khác lạ, mới mẻ, cửa nhà nhà mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vất ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô ở dưới gốc cây đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác màn tung hoành ngay lối đi đã được hốt đi. Niềm vui dâng lên trong lòng. Toàn là những dấu hiệu vui, những dấu hiệu về một ngày mai tươi sáng hơn. Nếu chỉ nghĩ đến sự sống chết trước mặt, nếu không có niềm tin rằng mình sẽ thoát khỏi cái đói, nếu không khao khát một cuộc sống khấm khá hơn thì họ sẽ để mặc cửa nhà bừa bộn, nhếch nhác.
Một cảnh tượng hết sức bình dị hiện ra trước mắt Tràng: “Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi những bụi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Hai người phụ nữ của cuộc đời hắn đang cặm cụi quét tước, thu dọn cửa nhà. “Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại ất thấm thía cảm động. Hạnh phúc, quả thực, đến từ những điều rất nhỏ”. Niềm vui, niềm hạnh phúc đã đem đến sự đổi thay kì diệu trong tâm hồn Tràng: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Nhà không là sự vật hữu hình, cụ thể, nhà còn là gia đình, là tổ ấm. Từ giờ trở đi “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng - nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Chỉ trong một đoạn ngắn ngủi mà Kim Lân đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất ngờ, bỡ ngỡ cho đến vui sướng tột cùng khi biết mình đã có gia đình. Một niềm vui thật cảm động, cả hiện thực như xen lẫn giấc mơ. Niềm vui như nhân đội, bởi bên cạnh hạnh phúc lứa đôi, Tràng còn có thêm một niềm hạnh phúc to lớn nữa - hạnh phúc gia đình. Anh chàng cục mịch, khù khờ thường ngày vụt trở nên sâu sắc. Hạnh phúc như khiến con người ta trưởng thành hơn trong cảm xúc.
Hạnh phúc còn khiến con người trưởng thành trong nhận thức. Tràng ý thức được bổn phận, trách nhiệm của người đàn ông với gia đình. Tràng nhận thấy ý nghĩa của cuộc đời chính là yêu thương, gắn bó và chăm lo cho những người thân. “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân , hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà. Chi tiết hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây ngô sang nhận thức. Rõ ràng, khát vọng hạnh phúc ở con người lớn hơn cái đói và cái chết. Đó là lí do dẫn đến cái kết“. Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới ” của câu chuyện.
Nhân vật Tràng trong đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung là một phát hiện của nhà văn Kim Lân về người lao động: Dù sống trong hoàn cảnh nào, dù đang ở trong vực thẳm của sự đói khát, họ vẫn luôn khát khao sống, khát khao hạnh phúc. Khát khao ấy mạnh hơn cái đói, cái chết. Phát hiện này làm nên giá trị nhân đạo cho tác phẩm. So với những tác phẩm viết về người lao động trước Cách mạng, Vợ nhặt mang đến một giá trị mới mẻ hơn. Nhà văn không chỉ thấy nỗi khổ của con người và vẻ đẹp tâm hồn của họ mà còn nhìn thấy tương lai và con đường sống tất yếu của họ. Cho dù đang đứng , lao động Việt Nam vẫn tràn đầy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, vẫn tin trường, tin miệng vực của cái đói, cái chết, cho dù bị dồn đuối đến bước đường cùng thì người dân vẫn tin vào một tương lai tươi sáng hơn.
Nhà văn Kim Lân đã nói: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn sống, sống cho ra con người.”