Top 9 Bài văn cảm nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua ca dao than thân hay nhất

Hà Ngô 214 0 Báo lỗi

Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa vốn đã chịu nhiều đau đớn và bất hạnh. Tất cả những đau thương ấy được họ gửi gắm vào trong ca dao. Ca ... xem thêm...

  1. Hình ảnh người phụ nữ và thân phận long đong như thân cò mò mẫn xuất hiện rất nhiều trong thơ văn, đặc biệt trong ca dao dân ca Việt Nam thì hình ảnh này lại được tác giả dân gian lựa chọn đặc tả rất hay và những câu ca ấy luôn đi cùng năm tháng.


    Đặc biệt người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa là những người phải chịu nhiều thiệt thòi, áp bức bóc lột của giai cấp cường quyền, thậm chí cuộc đời họ vướng vào nhiều chông gai, sóng gió. Người phụ nữ mang vẻ đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng với tâm hồn và tình yêu trong sáng nhưng họ luôn bị các thế lực tàn bạo vùi dập một cách không thương tiếc. Sự bất công dưới chế độ không kiến càng được hiện hữu rõ khi theo tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, họ chỉ coi phụ nữ như tầng lớp cuối của xã hội không có chỗ để họ vục dậy đấu tranh.

    Người phụ nữ xưa không được làm chủ chính cuộc sống của mình, phải thuận theo những khuôn phép chật hẹp chói buộc cuộc đời họ trong những khung sắt giam giữ tâm hồn họ không có gì gọi là cho riêng mình. Đặc biệt khi xã hội phong kiến rất coi trọng “tam tòng, tứ đức” thì đã biến cuộc đời mỗi phụ nữ khi được sinh ra là phải luôn sống hi sinh cho người khác, sống vì người khác không phải cho mình. Chúng ta có thể thấy được trong thơ Hồ Xuân Hương hình ảnh người phụ nữ là chủ để chính cốt lõi luôn được bà nhắc đến và để dành một khoảng trống viết về từng cuộc đời thân phận của họ. Lời thơ giống như lời bộc bạch cho chính thân phận tác giả và lời kêu vang muốn bảo vệ cho phụ nữ nói chung:


    “Thân em vừa trắng lại vừa tròn
    Bảy nổi ba chìm với nước non
    Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
    Mà em vẫn giữ tấm lòng son…”


    Người phụ nữ xưa có nhan sắc, phẩm hạnh nhưng quả thực đúng như câu nói cho các bậc thi nhân nói về số phận của người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” dù họ đẹp nhưng vẫn phải chịu một cuộc đời trôi nổi đầy sóng gió. Như những chiếc bánh trôi “bảy nổi ba chìm với nước non”, tác giả Hồ Xuân Hương rất tinh tế khi mượn hai từ “nổi”, “chìm” để nói lên được rõ nhất số phận những người con gái tài hoa cứ chìm, nổi không biết dạt về chốn nào.


    “Thân em như tấm lụa đào,
    phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”


    Đây cũng là một câu ca dao đã nói lên được hết số phận trôi nổi, “phất phơ” giữa cuộc đời không chốn nương tựa. Người phụ nữ giống như “tấm lụa đào” tuy đẹp tuy thướt tha nhưng dường như không có giá trị cứ mặc ngang giữa đường đời không ai hay. Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam còn rất nhiều những câu thơ hay về chủ đề quen thuộc này, những câu ca dao than thân, trách phận:


    - “Thân em như hạt mưa sa
    Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”

    - “Thân em như chổi đầu hè
    Phòng khi mưa gió đi về chùi chân
    Chùi rồi lại vứt ra sân

    Gọi người hàng xóm có chân thì chùi”


    Nỗi khổ của người phụ nữ không chỉ về vật chất “ngày ngày hai buổi trèo non”, “ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương” mà nỗi khổ lớn nhất chính là những chịu đựng cay đắng về tinh thần, họ chỉ được ví với “hạt mưa sa”, “chổi đầu hè”…Ta có thể cảm nhận được bao nỗi xót xa của người phụ nữ khi cất lên những lời ca ấy. Họ hiểu được thân phận mình cả đời họ chỉ lầm lũi giống thân cò thân vạc, cam chịu trong sự đau khổ, nhọc nhằn. Và dường như sự bất hạnh ấy của người phụ nữ trong xã hội xưa là một hằng số chung.


    Đến khi đi lấy chồng, người phụ nữ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm “xuất giá tòng phu”, “lấy chồng làm ma nhà chồng” đã khiến bao người phụ nữ xưa phải ngậm ngùi nuốt đăng cay, đặc biệt khi lấy chồng xa quế nỗi nhớ khôn nguôi khi đứng ngóng trông về quê mẹ:


    - “Chiều chiều ra đứng bờ sông
    Muốn về với mẹ mà không có đò”

    - “Chiều chiều ra đứng ngõ sau
    trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”

    - “Chiều chiều xách giỏ hái rau
    Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần”


    Trong xã hội xưa thì khi về làm dâu phải thuận theo nhà chồng, phải chịu những cảnh cực khổ, những khuôn phép ràng buộc, giữ ý tứ khiến người phụ nữ bị bó buộc. Đã phải chịu nhiều cay đắng tủi cực, họ đều nhẫn nhịn cam chịu nhưng cũng đã có những người phụ nữ vùng lên đứng dậy phản kháng bởi áp lực quá lớn lên đôi vai gầy để đến khi họ không thể chịu được. Đặc biệt số phận người phụ nữ càng trở nên bi kịch khi chịu cảnh chồng chung. Xã hội phong kiến cho phép “trai quân tử năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng” đây là điều bất công mà bao đời nay vẫn còn tiếp diễn. Những người chịu nhiều thua thiệt họ cần được cảm thông, chia sẻ:


    - “Lấy chồng làm lẽ khổ thay
    Đi cấy đi cày chị chẳng kể công
    Tối tối chị giữ mất chồng
    Chị cho manh chiếu, nằm không chuồng bò
    Mong chồng chồng chẳng xuống cho
    Đến khi chồng xuống, gà o o gáy dồn
    Chém cha con gà kia, sao mày vội gáy dồn
    Để tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con”

    - “Thân em làm lẽ chẳng nề
    Có như chính thất, ngồi lê giữa đường”


    Mặc dù phải chịu những đau thương như vậy nhưng tâm hồn họ vẫn trong sáng, người phụ nữ vẫn luôn có khao khát được hưởng một hạnh phúc trọn vẹn, vẫn ước mơ có tình yêu đẹp:


    “Ước gì sông rộng một gang
    Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”


    Chỉ là những lời ca ngắn ngủi nhưng vô cùng cô đọng, đó là những lời than thân những lời thổ lộ hết nỗi lòng của người phụ nữ xưa. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào thì vẻ đẹp của người phụ nữ cũng không bị vùi lấp. Hình ảnh đó vẫn luôn là chủ đề được các nhà văn, nhà thơ lựa chọn trong sáng tác của mình.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

  2. Kho tàng văn học dân gian Việt Nam luôn là dòng sữa mát lành nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta. Cùng với các thể loại khác, ra đời trong xã hội cũ, ca dao diễn tả tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân trong các mối quan hệ lứa đôi, gia đình, quê hương, đất nước... không chỉ là lời ca yêu thương tình nghĩa, ca dao còn là tiếng hát than thân cất lên từ cuộc đời xót xa, cay đắng của người Việt Nam, đặc biệt là của người phụ nữ trong xã hội cũ.


    Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ luôn bị coi nhẹ, rẻ rúng, họ không được quyền quyết định trong mọi lĩnh vực cuộc sống. Tư tưởng "trọng nam khinh nữ" đã chà đạp lên quyền sống của họ, đàn ông được coi trọng, được quyền "năm thê bảy thiếp", được nắm quyền hành trong xã hội, trong khi đó phụ nữ chỉ là những cái bóng mờ nhạt, không được coi trọng. Họ phải làm lụng, vất vả cung phụng chồng con, một nắng hai sương mà cuộc đời thì tăm tối. Họ phải cất lên tiếng nói của lòng mình.


    "Thân em như tấm lụa đào
    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"


    Tiếng nói đầy mặc cảm, cay đắng. Người phụ nữ ví mình như một tấm lụa được người ta bày bán giữa chợ. Thân phận họ cũng chỉ là vật giữa chợ đời bao người mua. Thân phận họ bé nhỏ và đáng thương quá đỗi. Hai từ "thân em" cất lên sao xót xa, tội nghiệp. Xã hội lúc bấy giờ đâu cho họ được tự do lựa chọn, ngay từ lúc sinh ra, được là người họ đã bị xã hội định đoạt, bị cha mẹ gả bán, họ không có sự lựa chọn nào khác:


    "Thân em như con cá rô thia
    Ra sông mắc lưới vào đìa mắc câu"


    Không một lối thoát nào mở ra trước mắt, họ cảm thấy cuộc đời chỉ là kiếp nô lệ, bốn phía lưới giăng. Hình ảnh "Tấm lụa đào", hay "con cá rô thia" trong hai câu ca dao trên là hình ảnh so sánh nghệ thuật. Hình ảnh này cho ta liên tưởng tới sự tầm thường, bé nhỏ của thân phận người phụ nữ: tấm lụa thì đem ra đổi bán, con cá rô thia thì được vùng vẫy đây nhưng chỉ trong chiếc ao tù. Hình ảnh con cá rô thia cho ta nghĩ đến người phụ nữ trong sự bủa vây của truyền thống, tập tạc, quan niệm phong kiến bao đời hà khắc, đến hạnh phúc của mình cũng không được quyền quyết định:


    "Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy
    Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa
    Em với anh cũng muốn kết nghĩa giao hòa
    Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời,
    Em với anh cũng muốn kết tóc ở đời,
    Sợ rằng mây bạc giữa trời mau tan"...


    Bao khát khao bị kìm hãm, hạnh phúc lứa đôi bị rào cản phong tục đè nén, họ ngẫm mình và cất lên tiếng than cay đắng.


    "Thân em như miếng cau khô
    Người thanh chuộng mỏng, người khô tham dày"


    Câu ca nào cũng đầy ai oán, số phận nào cũng được ví bằng những thứ bé nhỏ, tầm thường, đó là sự ý thức, sự phản kháng của những con người triền miên bất hạnh. Họ có quyền được sống, được tự do yêu đương, nhưng xã hội đã chà đạp lên quyền của họ, chỉ cho họ một cuộc đời lầm lũi, chua cay.


    "Năm nay em đi làm dâu
    Thân khác gì trâu mang theo ách
    Năm nay em đi làm vợ
    Thân mang cày, dây khiến không biết ai?

    Em đi làm dâu không có mùa nghỉ, chỉ có mùa làm."


    Người con gái trong bài ca dao H’mông này đang than thân trách phận mình khi "xuất giá tòng phu’’. Họ lấy chồng, không phải vì hạnh phúc mà để làm một con vật lao động trong nhà chồng, một con vật suốt đời "theo ách" như trâu mang. Cuộc sống như khép lại trước mắt họ, chỉ thấy một sự trói buộc đến phũ phàng:


    "Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
    Chim vào lồng biết thuở nào ra"

    Có khi họ bị chồng đánh đập:

    "Cái cò là cái cò quăm
    Mày hay đánh vợ mày nằm với ai"

    Có khi bị chồng phụ bạc:

    "Nhớ xưa anh bủng anh beo
    Tay bưng chén thuốc lại đèo múi chanh,
    Bây giờ anh mạnh anh lành
    Anh tham duyên mới anh đành phụ tôi."


    Ở lĩnh vực nào người phụ nữ xưa cũng không được quyền hanh phúc. Cuộc sống không có tự do, tình yêu không được công nhận, hôn nhân không được định đoạt, quan hệ vợ chồng không được tôn trọng... Ở mặt nào họ cũng bị vùi dập xô đẩy, cũng không được quyền lên tiếng lựa chọn. Đến cả sự tỏ bày tình yêu cũng vô cùng tội nghiệp.


    "Thân em như củ ấu gai
    Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
    Không tin bóc vỏ mà xem
    Ăn rồi mới biết rằng em ngọt bùi"


    Ở câu than thân nào họ cũng ví mình thật tội nghiệp, nào là tấm lụa, nào là hạt mưa, nào là miếng cau khô, rồi củ ấu gai... thứ nào cũng nhỏ nhoi, tội nghiệp. Hạt mưa thì chẳng biết rơi vào đâu, miếng cau thì tùy người chọn, còn củ ấu thì có vẻ đẹp bên trong mà không ai biết. Bài ca dao này là một sự giãi bày của người phụ nữ. Người phụ nữ muốn xã hội công nhận giá trị của mình, nhưng vẫn đầy tự ti: "Không tin bóc vỏ mà xem, ăn rồi mới biết là em ngọt bùi". Một sự mời mọc ngập ngừng.


    Có thể nói, những bài ca dao than thân trách phận không chỉ là lời than thở vì cuộc đời, cảnh ngộ khổ cực, đắng cay, mà còn là tiếng nói phản kháng, tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội cũ.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Trong xã hội phong kiến xưa, thân phận của người phụ nữ luôn là tấm gương thể hiện rõ những ngang trái, những bất công. Sống trong thiết chế hà khắc của quan niệm "trọng nam khinh nữ", họ chỉ còn biết ngậm ngùi khóc thầm và than thân trách phận thông qua những câu ca dao. Những câu ca than thân cất lên đã thể hiện rõ khát vọng tự do về tình yêu và giải phóng thân phận cùng tinh thần phản kháng chế độ phong kiến của người phụ nữ.


    Thông qua những câu ca dao than thân, chúng ta có thể thấy được thế giới cảm xúc cùng sự cảm nhận mang tính khái quát về những bất hạnh của con người, đặc biệt là số phận của người phụ nữ. Sống trong chế độ xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công của chế độ nam quyền và tư tưởng "trọng nam khinh nữ", người phụ nữ bị tước đoạt đi mọi quyền lợi và không có quyền tự do định đoạt cuộc sống của mình:


    "Thân em như tấm lụa đào

    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"


    Với cách diễn đạt quen thuộc thông qua mô-tip "thân em"- cách diễn đạt quen thuộc được lặp đi lặp lại nhiều lần trong ca dao, câu ca trên đã so sánh người phụ nữ với "tấm lụa đào"- hình tượng gợi lên vẻ đẹp thướt tha. Người phụ nữ đã cất lên tiếng ca ví mình với tấm lụa - tuy đẹp đẽ nhưng đến cuối cùng chỉ là một món hàng "phất phơ giữa chợ" và không có quyền định đoạt số phận của mình. Thứ đã tước đoạt đi quyền tự do của họ chính là lễ giáo phong kiến hà khắc với những quy định khắt khe, khiến thân phận của người phụ nữ trở nên lênh đênh, chìm nổi:


    "Thân em như hạt mưa sa

    Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày"


    Số phận của người phụ nữ bỗng nhiên lênh đênh, chìm nổi và không thể đoán định được tương lai và hoàn toàn phụ thuộc vào sự may rủi, cũng giống như hạt mưa sa vào những địa điểm khác biệt về "đài các" và "ruộng cày". Bên cạnh việc so sánh phận mình với những sự vật tốt đẹp nhưng không được trân trọng, người phụ nữ còn ví mình với những sự vật thấp bé, nhỏ nhoi không đáng được quan tâm:


    "Thân em như củ ấu gai

    Ai ơi, nếm thử mà xem

    Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi"


    Củ ấu gai với vẻ đẹp tiềm ẩn "Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen" phải cất lên tiếng lòng mời gọi "Ai ơi" để thể hiện nét đẹp của bản thân cho thấy trong xã hội phong kiến, giá trị cũng như vẻ đẹp của người phụ nữ không hề được quan tâm. Câu ca cất lên với lời mời gọi thể hiện sự tự khẳng định bản thân đầy mạnh mẽ, táo bạo nhưng vẫn mang đậm dư âm của sự chua xót và cay đắng. Trong kho tàng ca dao Việt Nam, chúng ta còn bắt gặp rất nhiều câu ca thể hiện rõ thân phận của người phụ nữ trong sự đối chiếu, so sánh giữa hai đối tượng nam và nữ:


    "Anh như chỉ óng thêu cờ,

    Em như rau má mọc bờ giếng khơi"

    Hay như:

    "Anh như tán tía, lọng vàng

    Em như chiếu rách nhà hàng bỏ quên"


    Thông qua sự so sánh đối chiếu qua cặp lục bát và kết cấu song hành đối xứng: "Anh như" - "Em như", câu ca đã thể hiện rõ quan niệm trọng nam khinh nữ cùng sự bất công, sự khinh trọng trong lễ giáo phong kiến xưa về con người. Như vậy, thông qua những câu hát than thân, chúng ta có thể thấy rõ thân phận đầy bi kịch của người phụ nữ; đồng thời thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, cũng như tiếng nói phản kháng của họ trước một xã hội đầy rẫy những ngang trái luôn vùi dập số phận, cuộc đời của họ.


    Thế giới ca dao không chỉ tràn ngập những tiếng hát ngợi ca, yêu thương mà còn chứa đựng những tiếng khóc thầm, ngậm ngùi, than thân trách phận của những người phụ nữ. Đó cũng chính là những câu ca làm nên giá trị nhân đạo, nhân văn vô cùng cao đẹp trong nền văn học dân gian.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  4. Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha đối với quê hương, đất nước... mà còn là tiếng thở than về số phận bất hạnh và những cảnh ngộ khổ cực, đắng cay.


    Những câu hát than thân ngoài ý nghĩa than thân trách phận còn có ý nghĩa, phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:


    Nước non lận đận một mình,

    Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

    Ai làm cho bể kia đầy,

    Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?


    Thương thay thân phận con tằm,Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.Thương thay lũ kiến li ti,Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.Thương thay hạc lánh đường mây,Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.Thương thay con cuốc giữa trời,Dầu kêu ra máu có người nào nghe.3.Thân em như trái bần trôi,Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?


    Cả ba câu hát đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền với âm hưởng ngậm ngùi, thương cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ thường thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp người nghèo khổ trong xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, trái bần...). Mở đầu mỗi câu thường là những cụm từ như Thương thay... Thân em như... và nội dung ý nghĩa được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tu từ.


    Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nước. Cò gần gũi bên người nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò giang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn... Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình:


    Nước non lận đận một mình,

    Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.


    Nghệ thuật tương phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa trời nước mênh mông, cò lủi thủi, đơn côi, lầm lũi kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. Đã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với bao nỗi éo le ngang trái. Câu ca dao như một tiếng thở dài não nề, như một lời trách móc, oán than trước nghịch cảnh của cuộc đời. Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dưới để mò tôm, người nông dân ngậm ngùi liên tưởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu;


    Ai làm cho bể kia đầy,

    Cho ao kia cạn cho gầy cò con?


    Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội cũ luôn muốn dồn người bị trị vào bước đường cùng?!


    Cao hơn ý nghĩa một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận long đong, khốn khổ của người nông dân nghèo vì sưu cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận xương tuỷ của giai cấp thống trị.

    Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến:


    Thương thay thân phận con tằm,

    Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.

    Thương thay lũ kiến li ti,

    Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.

    Thương thay hạc lánh đường mây,

    Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.

    Thương thay con cuốc giữa trời,

    Dầu kều ra máu có người nào nghe.


    Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa


    vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ.


    Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khó. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe là thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm nỗi khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí nào soi tỏ.


    Bốn câu ca dao - bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và nỗi xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những nỗi thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng cao thêm.


    Trong ca dao, người xưa có thói quen khi nhìn nhận sự vật thường hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,...) bởi cho rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiến cho những nỗi thương tâm gây xúc động thấm thía.


    Tằm ăn lá dâu, nhả ra tơ để cho con người lấy tơ dệt thành lụa, lĩnh, gấm, vóc... những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp thượng lưu giàu có. Đã là kiếp tằm thì chỉ ăn lá dâu, thứ lá tầm thường mọc nơi đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm Bé nhỏ kia ăn được là bao?! Mượn hình ảnh ấy, người lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà hưởng thụ dường như chẳng có. Điều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, tưởng như không thể tìm ra lối thoát.

    Câu hát “Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi” diễn tả sự chia li bất đắc dĩ giữa người đi xa với những người thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha phương cầu thực, để trốn thuế trốn sưu. Con đường mưu sinh trước mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Người gạt nước mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, như hạc lánh đường mây, như chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ được trở lại cố hương, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?


    Câu hát cuối: “Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe” lấy ý thơ từ sự tích vua Thục Đế mất nước, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói lên nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau do áp bức bất công gây ra cũng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cũng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thinh không mà nào có ai để ý.


    Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương thay... Thương thay...) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu thương thân, thương phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống như một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.


    Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa phương của một vùng sông nước miền Nam.


    Tên gọi của trái bần gợi sự liên tưởng đến thân phận người nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mụ u, trái sầu riêng thường gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.


    Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muôn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ.


    Tóm lại, cả ba bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung than thân trách phận. Cuộc đời của người nông dân nghèo khổ xưa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, tương lai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. Điều đó chỉ chấm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của Đảng soi đường dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thông trị kéo dài bao thế kỉ.Ngày nay, cuộc sống buồn đau, cơ cực đã lùi vào dĩ vãng. Tuy vậy, đọc những bài ca dao trên, chúng ta càng hiểu, càng thương hơn ông bà, cha mẹ đã phải chịu kiếp đói nghèo trong rơm rạ của một quá khứ chưa xa.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  5. Nằm trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, ca dao được ra đời trong xã hội cũ, đại diện cho đời sống tinh thần và tư tưởng cũng như tình cảm của nhân dân lao động trong các mối quan hệ. Các tác giả dân gian đã thông qua chùm “Ca dao than thân, yêu thương, tình nghĩa” cho chúng ta cảm nhận được niềm chua xót, đắng cay, tình cảm son sắt, bền chặt của lớp người trong xã hội, đặc biệt là số phận của người phụ nữ trong chế độ phong kiến xưa cũ.


    Người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay luôn được biết đến với những vẻ đẹp giản dị, mộc mạc và mang trong mình những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Tuy nhiên, trong văn học nói chung và trong ca dao nói riêng, số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn bị coi thường, rẻ rúng, trở thành nạn nhân của tư tưởng “Trọng nam khinh nữ”.


    “Thân em như tấm lụa đào
    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”


    Câu ca dao cho thấy người phụ nữ hoàn toàn nhận thức được vẻ đẹp và giá trị của mình, “tấm lụa đào” tượng trưng cho tấm thân người phụ nữ với vẻ đẹp về nhan sắc. Chỉ tiếc thay, người phụ nữ tự ý thức được vẻ đẹp và giá trị bản thân nhưng xã hội lại không. Số phận người phụ nữ trở nên rẻ rúng, bị đem ra trao đổi mua bán ngoài chợ và trở thành một món hàng không hơn không kém, để cho người ta tha hồ lựa chọn, chỉ không biết liệu có gặp được người quân tử hay lại rơi vào tay kẻ tiểu nhân. Người phụ nữ trong xã hội cũ hoàn toàn không có quyền quyết định cuộc sống và số phận của mình, cũng không có khả năng phản kháng. Hôn nhân được sắp đặt và định đoạt bởi cha mẹ, cuộc đời trôi nổi bất định, hạnh phúc như một ván cờ đỏ đen, may rủi.


    “Thân em như củ ấu gai
    Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.”


    Hình ảnh so sánh rất mộc mạc và gần gũi, giản dị nói về những người phụ nữ không có lợi thế về ngoại hình và nhan sắc nhưng lại có vẻ đẹp tâm hồn. Câu ca dao nhấn mạnh đến vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất bên trong của người phụ nữ, đó là vẻ đẹp trong sáng, hiền dịu, tấm lòng chung thủy son sắt và đức hi sinh cao cả. Trong xã hội cũ, người ta đề cao vẻ đẹp hình thức và thường đánh giá số phận người phụ nữ qua nhan sắc của họ. Một người phụ nữ có nhan sắc sẽ được coi trọng và được nhiều người để ý đến, còn nếu kém về nhan sắc sẽ chịu nhiều thiệt thòi và bị coi thường, chà đạp không thương tiếc. Tuy nhiên, vẻ đẹp tâm hồn đâu dễ để người đời có thể nhìn nhận thấy được, chỉ có thể cảm nhận bằng sự chân thành, chính vì vậy người phụ nữ phải mời mọc chỉ mong sao tìm được người có thể nhận ra vẻ đẹp tâm hồn trong con người mình.


    “Ai ơi, nếm thử mà xem!
    Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.”


    Đó là lời mời mọc đầy tha thiết và có phần táo bạo nhưng lại ẩn chứa nỗi đắng cay, tủi nhục, lời than thân trách phận đầy chua xót. Những câu ca dao than thân đã nói lên tiếng than của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến thời xưa, họ có chung một số phận phải chịu những bất công, vùi dập và bị tước đi quyền được sống, quyền được hạnh phúc. Tuy nhiên nỗi đau xót và tủi nhục của mỗi người lại mang những sắc thái riêng mà các tác giả dân gian đã rất khéo léo diễn tả các sắc thái khác nhau đó bắng những hình ảnh ẩn dụ và so sánh đặc trưng.


    “Trèo lên cây khế nửa ngày,
    Ai làm chua xót lòng này, khế ơi!
    Mặt trăng sánh với mặt trời,
    Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng.
    Mình ơi! Có nhớ ta chăng?
    Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời.


    Bài ca dao trên nói về tình yêu đôi lứa, đặc biệt là về tình cảm của người con gái khi yêu. Hai câu đầu cho thấy được nỗi lòng đau đớn, xót xa và nỗi buồn da diết của người con gái khi lỡ dở duyên tình. Những hình ảnh mặt trăng, mặt trời biểu tượng cho sự vĩnh cửu, tương xứng trong tình yêu, nhưng đó cũng là sự xa cách nghìn trùng. Tình duyên đã lỡ dở nhưng người con gái vẫn kiên định một lòng chờ đợi như “sao Vượt chờ trăng”, những hình ảnh đẹp cho thấy tình cảm son sắt, sâu đậm mà người con gái dành cho người mình yêu. Nỗi nhớ và sự trông ngóng trong vô vọng đã khẳng định tình yêu son sắt, chung thủy mặc cho duyên không thành. Bài ca dao trên nói về cô gái trong một tình yêu lỡ dở, còn bài ca dao “Khăn thương nhớ ai” lại diễn tả nỗi nhớ thương da diết của một cô gái đang yêu.


    Tác giả dân gian đã dùng hình ảnh chiếc khăn để gửi gắm tâm tư của nhân vật trữ tình. Những trạng thái vận động của chiếc khăn kia chính là tâm trạng tương tư sầu muộn, trạng thái bồn chồn, đứng ngồi không yên của người con gái khi nhớ về người yêu. “Đèn thương nhớ ai”, hình ảnh đèn lại biểu tượng cho thời gian, cho thấy sự chờ đợi triền miên theo thời gian và luôn thường trực đến khi cô gái mỏi mắt “Mắt thương nhớ ai – Mắt ngủ không yên”. Cô gái đã không còn giấu giếm tâm tư của mình nữa mà đã bộ bạch ra chân thật và tự nhiên. Đến hai câu cuối, ta đã thấu hiểu nỗi nhớ thương thấp thỏm của cô gái:


    “Đêm qua em những lo phiền,
    Lo vì một nỗi không yên một bề…”


    Đó là nỗi lo về duyên phận của cô gái trong xã hội xưa, ngoài những nhớ thương cô còn lo cho tình yêu của mình, thấp thỏm trước những biến chuyển trong xã hội và trong lòng người. Cô gái nhận thức được thân phận của mình và không khỏi lo lắng cho số phận và tình yêu của mình.


    “Ước gì sông rộng một gang,
    Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi.”


    Câu ca dao thể hiện ước muốn tha thiết và tế nhị thường tình của người con gái với chàng trai của mình. Hình ảnh chiếc “cầu dải yếm” thật độc đáo, tượng trưng cho sự gợi cảm và mềm mại trong vẻ đẹp của người con gái. Ước nguyện của cô gái thật hồn nhiên nhưng đầy ngẫu hứng, cho thấy sự thổ lộ mãnh liệt của cô gái trong tình yêu. Người phụ nữ trong tình yêu là vậy, còn trong tình nghĩa vợ chồng, dân gian đã có bài ca dao về tình nghĩa như:


    “Muối ba năm muối đang còn mặn
    Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
    Đôi ta nghĩa nặng tình dày
    Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.”


    Gừng và muối là hai biểu tượng quen thuộc khi nói về tình nghĩa, đó vừa là gia vị không thể thiếu trong bữa ăn gia đình lại vừa thể hiện cho những đắng cay, sóng gió trong cuộc đời. Vị mặn và vị cay của gừng trường tồn theo năm tháng và tình nghĩa của đôi ta cũng như vậy, dù đắng cay ngọt bùi vẫn luôn có nhau. Câu nói về thời gian không chỉ có tác dụng hiệp vần mà còn ý nói đến độ dài thời gian hàng trăm năm, hơn thế, tình nghĩa không chỉ tính theo năm mà còn tính theo từng ngày, chỉ khi đến chết mới cách xa tình nghĩa của đôi ta.


    Như vậy, qua chùm “Ca dao than thân, yêu thương, tình nghĩa”, người đọc không chỉ cảm nhận được những lời than thân trách phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến mà bên cạnh đó còn được thấu hiểu biết bao tâm trạng, khát vọng cũng như tình nghĩa của người phụ nữ thời xưa. Số phận của người phụ nữ đã được phản ánh thật phong phú, sâu rộng và đa dạng trong mọi hoàn cảnh, điều đó chính nhờ sự sáng tạo tài tình của các tác giả dân gian qua hệ thống ngôn từ, hình ảnh đầy hấp dẫn và độc đáo.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  6. Những câu ca dao là khúc hát ân tình, du dương, trầm bổng của nhân dân ta từ ngàn đời nay. Trong những câu ca nhẹ nhàng, bình dị ấy chất chứa biết bao tình cảm, bao nỗi niềm của nhân dân. Và trong những câu ca ấy, đặc biệt là qua những bài ca dao than thân chúng ta dễ dàng nhận thấy và đồng cảm với thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa.


    Trước hết, qua những bài ca dao than thân, người phụ nữ trong xã hội xưa hiện lên với thân phận bé nhỏ, hẩm hiu, nổi trôi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu. Chắc hẳn, khi nhắc đến đây, chúng ta sẽ không thể nào quên hình ảnh người phụ nữ hiện lên qua những câu ca, bài ca bắt đầu từ cụm từ “thân em”.


    “Thân em như tấm lụa đào
    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

    Hay:

    “Thân em như hạt mưa sa
    Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày”


    Bài ca dao bắt đầu bằng cụm từ “thân em” gợi lên biết bao nỗi niềm của người phụ nữ. Cụm từ ấy vừa thể hiện sự khiêm nhường của người phụ nữ nhưng có lẽ hơn hết đó chính là sự tự ý thức, sự nhận thức rõ ràng của họ về sự nhỏ nhoi, thấp kém của mình trong xã hội lúc bấy giờ. Thêm vào đó, “thân em” lại được so sánh với những vật nhỏ bé, mỏng manh, là “tấm lụa đào”, “hạt mưa sa”. Đồng thời, hình ảnh của tấm lụa đào và giọt mưa sa lại đi liền cùng các động từ “phất phơ”, “vào” - “ra” càng nhấn mạnh sự lệ thuộc, long đong, lận đận, trôi nổi, vô định, những người phụ nữ ấy rồi không biết sẽ đi về đâu của người phụ nữ. Cùng với đó, sự lệ thuộc, số phận nổi trôi của người phụ nữ còn được thể hiện rõ nét qua bài ca dao:


    “Thân em như chổi đầu hè
    Phòng khi mưa gió đi về chùi chân
    Chùi rồi lại vứt ra sân
    Gọi người hàng xóm có chân thì chùi”


    Ở bài ca dao này, hình ảnh người phụ nữ được so sánh với “chổi đầu hè” - một loại chổi không chỉ xấu về hình thức mà nó còn được dùng để quét dọn ngoài đường. So sánh người phụ nữ với “chổi đầu hè” đã gợi lên sự rẻ rúng của họ nhưng tác giả dân gian không chỉ dừng lại ở đó, nhân dân ta đã cho thấy người phụ nữ bị những người đàn ông chà đạp, khinh thường và rồi số phận họ lại không biết trôi dạt về nơi đâu. Điều đó đã được thể hiện chân thực và rõ nét qua hàng loạt các hình ảnh “chùi chân”, “vứt ra sân”,...


    Không chỉ có số phận lênh đênh, rẻ rúng, sống phụ thuộc vào người khác mà người phụ nữ xưa còn phải gánh chịu bi kịch của tình yêu khi họ không được làm chủ, không được quyền quyết định tình yêu, hạnh phúc của chính mình.


    “Mẹ em tham thúng xôi rền
    Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
    Em đã bảo mẹ rằng đừng
    Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào
    Bây giờ chồng thấp vợ cao
    Như đôi đũa lệch so sao cho bằng.”


    Có thể dễ dàng nhận thấy, người phụ nữ trong bài ca dao trên cũng như số phận của những người phụ nữ trong xã hội xưa đó chính là họ bị ép cưới theo quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Những người phụ nữ ấy không có quyền lên tiếng, không có quyền quyết định cho tình yêu của bạn thân mình, họ buộc phải nghe theo sự sắp xếp của gia đình và để rồi đến cuối cùng chịu biết bao đau đớn, tủi nhục, bao nỗi cô đơn.


    Đồng thời, bi kịch tình yêu, hôn nhân của những người phụ nữ còn thể hiện ở nỗi cô đơn, niềm nhớ nhà và nhiều khi đó còn là sự căm phẫn, đau đớn vì bị phản bội, vì cảnh lấy chồng chung.


    “Chiều chiều ra đứng ngõ sau
    Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”

    “Thân em đi lấy chồng chung
    Khác nào như cái bung xung chui đầu”


    Tóm lại, qua những bài ca dao nói chung, ca dao than thân nói riêng đã thêm một lần nữa giúp chúng ta nhận thấy và cảm nhận sâu sắc hơn về thân phận, tình cảnh của những người phụ nữ trong xã hội xưa.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  7. Ca dao là tiếng hát cất lên từ cõi lòng những người bình dân. Trong đó, có không ít những câu ca thể hiện nỗi lòng của những người phụ nữ. Họ là những người bị coi thường trong chế độ xã hội phụ quyền với tư tưởng"trọng nam khinh nữ". Qua những bài ca dao than thân về thân phận những người phụ nữ trong xã hội cũ, phần nào tôi hiểu được nỗi đau khổ mà họ phải chịu đựng.


    Trong xã hội ấy, họ bị tước đi những quyền lợi cơ bản của con người. Họ bị biến thành nô lệ cho những luật lệ, những ràng buộc nghiêm khắc của lễ giáo phong kiến và những quan niệm cổ hủ lạc hậu. Họ không có quyền quyết định số phận mình mà hoàn toàn phụ thuộc vào người khác bởi quy định "tam tòng" quá nghiêm khắc của Nho giáo "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" (ở nhà theo bố mẹ, lấy chồng nghe lời chồng, chồng chết phụ thuộc con). Điều giàng buộc ấy dẫn theo bao nhiêu bất hạnh của người phụ nữ, vì thế họ cất lên tiếng hát thân thở về thân phận bị động của mình:


    Thân em như tấm lụa đào
    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
    Thân em như hạt mưa sa
    Hạt vào giếng ngọc, hạt ra ruộng cày
    Thân em như giếng giữa đàng
    Người không rửa mặt, người phàm rửa chân


    Họ so sánh "Thân em..." với rất nhiều thứ, thể hiện nhiều bình diện khác nhau song vẫn có một điểm chung là: khẳng định giá trị của bản thân và than về số phận phụ thuộc của mình. Dù là "tấm lụa đào" quý giá hay "giếng giữa đàng" mát trong thì họ vẫn không biết tương lai như thế nào. Những hình ảnh so sánh ấy làm nổi bật thân phận bơ vơ, bất trắc của họ. Họ không thể tự quyết định số phận của mình. May mắn thì được chỗ yên lành hạnh phúc, bất hạnh thì bị rơi vào chốn lao đao và dù trong hoàn cảnh nào họ cũng phải chấp nhận bởi thân "các chậu chim lồng":


    Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
    Chim vào lồng biết thủa nào ra

    Vì phụ thuộc nên học phải lấy chồng khi còn ít tuổi, người phụ nữ là nạn nhân đau khổ nhất của nạn tảo hôn:

    Bướm vàng đậu đọt mù u
    Lấy chồng càng sớm, lời ru càng buồn


    Đọt mù u non nớt đã bị bướm vàng đến đậu và quấy phá. Cũng như người phụ nữ, càng làm vợ sớm thì càng khổ nhiều. Họ gửi nỗi buồn vào lời ru bởi không thể tâm sự cùng ai. Những cô gái bị ép gả khi còn tuổi niên thiếu đã dẫn đến những bi kịch số phận, đã có những câu ca dao tự trào đầy cay đắng xót xa:


    Lấy chồng từ thủa mười ba
    Đến nay mười tám thiếp đà năm con

    hay:

    Ra đường thiếp hãy còn son
    Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng


    Vì nạn tảo hôn, vì những hủ tục lạc hậu ấy mà người con gái trong xã hội xuă không được hưởng tuổi thanh xuân. Chưa kịp lớn, chưa kịp hiểu cuộc đời thì họ đã phải gắn cuộc đời mình với con thơ, phải chịu cảnh làm dâu trăm chiều cay đắng. Bao nhiêu gánh nặng cuộc đời đè nặng lên đôi vai gầy guộc của người phụ nữ.

    Quá nhiều bất trắc đón đợi người phụ nữ trên con đường đời, vì thế họ luôn mang trong mình những nỗi lo âu, khắc khoải. Số phận bấp bênh, hạnh phúc mong manh quá đỗi. Có được người yêu thương chân thành đã khó, giữ được người ấy và được sống chung lại càng khó hơn bởi họ đâu có quyền tự lựa chọn hạnh phúc cho mình. Quan niệm "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" đã tước đi của người con gái quyền được tự lựa chọn hạnh phúc cho mình. Bao nhiêu bất trắc, âu lo về số phận được gửi trong những câu ca dao đầy tâm sự:


    Hòn đá đóng rong vì hòn nước chảy
    Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa
    Em thương anh không dám nói ra
    Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời
    Em với anh cũng muốn kết đôi
    Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan


    Bao nhiêu giàng buộc, bao nhiêu bất trắc trút lên vai cô gái để cô phải mang trong lòng mình những nỗi lo âu. Thân phận yếu đuối của người phụ nữ trong xã hội xưa đã được thể hiện trong rất nhiều câu ca dao ca dao như thế. Thân phận con cò, con vạc lầm lũi, gầy guộc, vất vả kiếm sống, số phận lênh đênh đã trở thành một biểu tượng quen thuộc trong dân ca ca dao để chỉ người phụ nữ. Điều đó cho ta thấy, trong xã hội cũ, khi con người chưa có sự bình đẳng giới thì người phụ nữ phải chịu thiệt thòi như thế nào.


    Ngày nay, xã hội đã tiến bộ, nam nữ đã bình quyền, người phụ nữ đã được sống hạnh phúc hơn. Mặc dù không thể có sự bình đẳng tuyệt đối, nhưng người phụ nữ ngày nay đã được xã hội quan tâm đúng mực. Họ đã được phát huy hết khả năng của mình, được chủ động quyết định số phận của mình. Tuy đây đó còn nhiều bất công, người phụ nữ còn chịu thiệt thòi, song so với người phụ nữ thời xưa thì xã hội đã tiến một bước rất dài. Chúng ta sẽ loại bỏ dần những quan niệm lạc hậu, không phù hợp để người phụ nữ được quyền sống hạnh phúc, để những lời ca dao than thân được thay thế bằng những khúc ca vui.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  8. Có thể khẳng định rằng lịch sử văn học của một dân tộc là lịch sử tâm hồn của dân tộc đó. Những câu ca điệu hát từ thời xa xưa đã giúp những người lao động bình dân gửi gắm biết bao nỗi niềm tâm tư sâu kín. Và trong thế giới tâm hồn đầy sắc màu đó, lắng sâu hơn cả vẫn là những vần thơ về hình ảnh người phụ nữ. Họ được đề cập đến ở nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau nhưng có thể thấy rằng xuất hiện với tần suất khá cao là những câu ca dao than thân, đặc biệt là những câu ca ngắn gọn mở đầu bằng hai chữ "Thân em":


    Thân em như tấm lụa đào
    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
    Thân em như hạt mưa sa
    Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày.
    Thân em như giếng giữa đàng
    Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân.
    Thân em như trái bần trôi
    Sóng dập gió dồi biết tấp vào đâu.


    Hai tiếng "thân em" cất lên thật ngậm ngùi, xót xa gợi lên những thân phận nhỏ bé, hẩm hiu của những người phụ nữ ngày xưa dưới thời phong kiến. Chế độ xã hội phong kiến phụ quyền tồn tại hàng trăm năm với những quan niệm bất công, khắt khe với người phụ nữ: "Tại gia tòng phụ , xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" - một thân phận hoàn toàn bị phụ thuộc. Họ còn bị xem thường, xem như không tồn tại: nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô; nam tôn nữ ty....tất cả đã trói buộc cuộc đời họ. Nhưng nỗi khổ, nỗi lo lắng băn khoăn nhất là nỗi lo về thân phận mong manh, nổi nênh bị phụ thuộc:


    Thân em như tấm lụa đào
    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?


    Câu hỏi vang lên đầy lo lắng, băn khoăn day dứt. Quãng đời thanh xuân của người thiếu nữ là quãng đời đẹp nhất, ngọt ngào nhất như tấm lụa đào vậy mà họ lại phải cất lên lời than đầy xót xa, ngậm ngùi "biết vào tay ai ? ". Dẫu rằng, họ cũng ý thức được giá trị của bản thân mình - một tấm lụa đào mềm mại, óng ả duyên dáng đẹp từ trong ra ngoài vậy mà lại "phất phơ giữa chợ". Ở chợ, tấm lụa đào trở thành đối tượng để mọi người khen chê, mặc cả và sẽ trở thành sở hữu của bất kì ai muốn mua, những người có tiền dù họ tốt hay xấu. Nó không có quyền lựa chọn hay định đoạt số phận của mình. Câu hỏi cất lên khiến chúng ta mỗi khi đọc lại cũng không khỏi xót xa ngậm ngùi. Cuộc sống thân phận của họ hoàn toàn phụ thuộc vào người sử dụng: nếu là "giếng giữa đàng" thì "người khôn rửa mặt người phàm rửa chân.", là "miếng cau khô" thì "kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày"....


    Trong cái xã hội bất công ấy có biết bao nỗi khổ mà người phụ nữ phải chịu đựng, từ nỗi khổ về vật chất, tinh thần, về sự áp bức. Họ chưa bao giờ được tự chủ, tự quyết định bất cứ việc gì kể cả hạnh phúc của bản thân:


    Mẹ em thấy của thời tham

    Hang hùm cứ tưởng hang vàng ép con
    Nói ra thẹn với nước non
    Ngậm vào cay đắng lòng con đêm ngày.


    Bị ép duyên, không hạnh phúc dường như là mẫu số chung của những cô gái thời xưa, thế nên vẫn còn đó lời ca buồn:


    Bướm vàng đậu dọt mù u
    Lấy chồng càng sớm lời ru càng buồn.


    Thân phận người phụ nữ xưa là thế: mỏng manh, phụ thuộc, không biết trôi về đâu giữa dòng đời trong đục. Chính vì thế, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã tiếp nối mạch cảm xúc của văn học dân gian để khắc họa rõ nét hơn qua một tiếng thơ đầy bản sắc:


    Thân em vừa trắng lại vừa tròn
    Bảy nổi ba chìm với nước non
    Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
    Mà em vẫn giữ tấm lòng son.


    Dù cuộc đời có nổi trôi, có bảy nổi ba chìm họ cũng không hoàn toàn tự đánh mất mình, buông xuôi theo số phận. Họ vẫn giữ một "tấm lòng son" đầy kiêu hãnh, giữ được vẻ đẹp rực rỡ của tâm hồn, phẩm giá của người phụ nữ Việt Nam.


    Những điệu khúc ca dao của những người lao động bình dân đã đem đến cho chúng ta một cái nhìn toàn diện về họ và những bài học quý giá về cuộc sống, về con người để biết quý trọng những giá trị của ngày hôm nay.Văn học nghệ thuật ngày nay vẫn tiếp tục lưu giữ những vẻ đẹp của người phụ nữ trong một phương diện mới, khía cạnh mới. Và xã hội ngày nay đã tạo mọi điều kiện để phụ nữ thể hiện mình và hơn hết họ còn được xã hội tôn vinh qua các ngày lễ dành riêng cho phái nữ. Chúng ta hãy dần loại bỏ những quan niệm lạc hậu để những lời ca dao than thân xưa được thay thế bằng những khúc ca vui ngợi ca về người phụ nữ. Xin mượn lời nhà thơ Xuân Quỳnh để thêm một lần nữa khẳng định giá trị và vai trò của người phụ nữ trong xã hội:


    Một buổi sớm mai trớm bước chân mình trên cát

    Người mẹ cho ra đời những Phù đổng thiên vương
    Dẫu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh hùng
    Là bác học hay là ai đi nữa
    Cũng là con của một người phụ nữ
    Người đàn bà bình thường không ai biết tuổi tên.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  9. Ca dao dân ca luôn thể hiện những cảm xúc dạt dào về cuộc đời và số phận con người. Bằng những lời thơ chân tình mà sâu sắc, những câu hát than thân không chỉ nói lên số phận lênh đênh chìm nổi của những kiếp người nghèo khổ, sống phụ thuộc trong xã hội xưa mà còn là tiếng nói thương cảm là khát khao hạnh phúc, tự do với cuộc đời của họ. Những người phụ nữ xưa hiện lên qua từng câu hát nghe sao quá đỗi đắng cay chua xót:


    ”Thân em như tấm lụa đào
    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”


    Hai từ “thân em” nghe sao mà ngậm ngùi xót xa, dường như trái tim những người con gái ấy vẫn luôn xót xa, đắng cay cho thân phận nhiều tủi nhục của mình. Em vốn là tấm lụa đào đẹp đẽ, tấm lụa ấy là ẩn dụ cho vẻ đẹp sắc sảo, mềm mại và duyên dáng của người con gái đang tuổi xuân thì, nhưng số phận vốn trêu người “hồng nhan bạc mệnh”, em giờ đây như một món hàng “phất phơ” giữa chợ, mặc người mua kẻ bán, nếu may mắn gặp đúng người biết yêu thương, trân trọng thì phận đỡ trái ngang còn không phải chịu kiếp khổ cực, bi thương. Họ thật đớn đau khi ngay chính mình chẳng thể làm chủ cuộc đời mình giữa đầy rẫy những bất công, đành chấp nhận phó mặc cho số phận.


    ”Thân em như trái bần trôi
    Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”


    Người con gái ấy ví mình “như trái bần” trôi nổi giữa dòng sông, chịu bao đoạ đày “gió dập sóng dồi”, bao biến cố làm cho thân kia héo mòn, rời rã, trôi vô định chẳng biết đâu là bến đỗ của cuộc đời. Câu ca dao cất lên nghe như tiếng khóc ai oán, thương đau giữa cuộc đời chìm nổi, hạnh phúc mỏng manh chẳng thể níu giữ, phận hẩm hiu lênh đênh một kiếp tàn lụi chẳng tia hy vọng. Họ ao ước biết bao quyền được sống là chính mình, được tự do, được vun vén hạnh phúc gia đình:


    ”Ước gì sông rộng một gang
    Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”


    Nhưng lại bị bao kẻ khốn nạn chà đạp lên những ước muốn giản dị mà thiêng liêng ấy.


    “Thân em như củ ấu gai
    Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
    Không tin bóc vỏ mà xem

    Ăn rồi mới biết rằng em ngọt bùi”


    Những người phụ nữ xưa hơn ai hết họ ý thức được chính mình, họ có phẩm cách và đức hạnh tốt đẹp. Trong nghèo nàn họ làm lụng vất vả kiếm sống, trong khổ đau họ vẫn gắng gượng vượt qua, sống giữa những nhơ nhớp, bon chen của cuộc đời họ vẫn giữ phẩm cách trong sạch. Họ ví mình như củ ấu gai, một sự khiêm tốn về ngoại hình như vẫn luôn có một trái tim đẹp, một tấm lòng thủy chung son sắt. Những người phụ nữ ấy xứng đáng được hạnh phúc, được chở che biết bao. Nhưng thực tại quá phũ phàng, khi mà xã hội phong kiến với quan niệm “trọng nam khinh nữ” ngày càng lớn, họ bị xem nhẹ, rẻ rúng, khinh thường. Những kẻ tai to mặt lớn “năm thê bảy thiếp” khiến bao người phải chịu kiếp chồng chung, làm lẽ chẳng được yêu thương coi trọng.


    ”Thân em như hạt mưa sa
    Hạt vào giếng nước, hạt ra ruộng cày”


    Chao ôi, còn gì tội nghiệp hơn thế cho những số kiếp đáng thương kia. Những hạt mưa, những hạt mưa mang màu nước mắt của số phận. Người may mắn vào giếng nước có thể được nâng niu, kẻ hẩm hiu phải chịu kiếp lưng trần giữa ruộng đồng.


    ”Thân em như giếng giữa đàng
    Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân”


    Càng nghĩ càng tủi cực, đớn đau. Càng buồn càng thổn thức, xót xa, ngậm ngùi. Những người phụ nữ vốn đã yếu đuối lại chịu nhiều những vất vả, họ cũng cần được yêu thương được trân trọng từ mọi người, đặc biệt là người đầu ấp tay gối với mình. Vậy mà thứ hạnh phúc nhỏ nhoi ấy cũng phải chia năm sẻ bảy cho người. Hồ Xuân Hương cũng từng thốt lên tiếng thơ đã diết mà phẫn uất cho số phận đó:


    “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
    Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”


    Suốt một đời chăm sóc cung phụng cho chồng, cho con, vậy mà nào có được chút yêu thương tử tế:


    “Năm nay em đi làm dâu
    Thân khác gì trâu mang theo ách
    Năm nay em đi làm vợ
    Thân mang cày, dây khiến không biết ai?
    Em đi làm dâu không có mùa nghỉ, chỉ có mùa làm.”


    Họ vẫn phải một nắng hai sương dầm mưa dãi nắng, vẫn quần quật như con trâu cày ruộng suốt năm này qua năm khác, tháng này qua tháng khác. Chút san sẻ từ chồng cũng chẳng có, đành ngậm ngùi chấp nhận dẫu đêm về rơi nước mắt đau thương.


    Những người phụ nữ xưa có thân phận nhỏ bé đến tội nghiệp, họ có sắc đẹp, có tài năng và phẩm giá vậy mà vẫn chẳng thể sống được trọn vẹn hạnh phúc. Ta vẫn đau đáu trước bao số kiếp trong thơ ca cũng chính là hiện hữu cho những kiếp người trong xã hội cũ. Đó là phận nàng Kiều tài hoa bạc mệnh, là Vũ Nương thủy chung son sắt vẫn phải chịu cái chết oan khiên, là Hoạn Thư- nạn nhân của cuộc sống vợ chồng không tình yêu,…và đầy rẫy những số kiếp đau thương khác. Thật đớn đau đến nghẹn lòng cho bao thân phận đắng cay, bị những bất công ngang trái hủy hoại đến tận cùng.


    Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển con người cũng ngày càng được tự do và bình đẳng hơn. Những người phụ nữ ngày càng tự lập và tài năng, khẳng định được vị trí và vai trò quan trọng của mình. Họ trở thành những doanh nhân thành đạt, những nhà giáo ưu tú, những người lãnh đạo tài ba. Họ xây dựng gia đình hạnh phúc, cùng chồng con xây đắp cuộc sống vui vẻ, đầm ấm, an nhiên. Điều đó thật đáng quý và đáng mừng biết bao. Tuy nhiên, đâu đó,vẫn còn tồn tại những kẻ giữ quan niệm xưa mà làm nên bao điều tội lỗi. Là những kẻ sẵn sàng bỏ đi đứa con mình của mình vì dòng máu ấy không phải là đứa con trai nối dõi, vẫn còn những kẻ đang tay đánh đập vợ con tàn nhẫn mà không chút bận tấm. Và đâu đó, vẫn còn bao người chồng tệ bạc, ngoại tình phụ bạc người con gái mình yêu khiến họ phải chịu nhiều tổn thương, tủi nhục và thậm chí tìm đến cái chết để giải thoát. Những điều ấy thật đáng phê bình và lên án.


    Đọc những câu hát than thân về người phụ nữ trong xã hội xưa mới thấy được bao nỗi lòng của họ. Những tiếng lòng thổn thức, đau đến xé lòng, mỗi câu thơ cất lên mang cả những phẫn uất, đau thương và cả những khát khao hạnh phúc. Văn học Việt Nam đã trở nên quý giá biết bao khi có được sự đóng góp những vần thơ dân gian đẹp đẽ và chứa chan tinh thần nhân văn cao đẹp ấy.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy