Top 5 Bài văn cảm nhận 6 câu thơ cuối đoạn trích Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du hay nhất
"Truyện Kiều" là truyện thơ nôm xuất sắc của đại thi hào văn học dân tộc Nguyễn Du. Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" là một trong số những đoạn trích thể hiện tài ... xem thêm...năng miêu tả thiên nhiên tài tình của Nguyễn Du. Người đọc có thể chiêm ngưỡng được bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, náo nhiệt trong cuộc du xuân của hai chị em Thúy Kiều vào tiết thanh minh. Mời các bạn tham khảo một số bài văn cảm nhận 6 câu thơ cuối đoạn trích Cảnh ngày xuân (Nguyễn Du) mà Toplist tổng hợp ngay sau đây.
-
Khác với khung cảnh rạo rực, vui tươi vào buổi sớm của tiết thanh minh, buổi chiều Cảnh Ngày Xuân lại được Nguyễn Du khắc họa nhuốm một màu man mác, trầm lắng. Sáu câu thơ cuối trong bài Cảnh ngày xuân vẽ lên một nỗi niềm ưu tư, một nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đầy dụng ý bậc cao của tác giả:
“Tà tà bóng ngả về Tây
Chị em thở thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
Không còn những nô nức, hồ hởi như ở đoạn đầu, đến đây giọng thơ lắng xuống, chậm rãi từng khắc như kéo dài ra một nỗi buồn da diết mênh mang, lênh láng đến xót lòng. Trong cái bức tranh buổi chiều man mác ấy có sự đan xen hài hòa của 3 màu sắc hữu tình: đó là thời gian là cảnh vật và không thể thiếu đó là con người.
Nguyễn Du thật khéo léo, tài tình khi mở ra khung cảnh hoàng hôn trữ tình, xuyến xao thật nhẹ nhàng, thật tự nhiên:
“Tà tà bóng ngả về Tây”
“Tà tà” gợi ra những ánh nắng nhè nhẹ đang lả lướt buông về phía cuối phương trời xa. Một chút chậm rãi, một chút chùng chình như muốn níu lại những khoảnh khắc tươi đẹp cuối cùng còn sót lại của cảnh ngày xuân. Cái nhịp sống chậm rãi, vô tình ấy khiến cho buổi chiều hiện về không mang màu sắc thê lương, buồn tủi, đớn đau quen thuộc như trong văn học cổ.
Những ánh nắng xế chiều buông xuống, khoác lên cảnh vật chiếc áo bảng lảng nỗi buồn:
“Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
Tác giả đã vận dụng linh hoạt các cảnh vật: ngọn tiểu khê; dòng nước; dịp cầu, ghềnh nước để tô vẽ nên bức tranh cảnh trời chiều. Đây là những cảnh vật đặc sắc, có thể khắc họa được rõ nét nhất dòng chuyển dịch chậm rãi của thời gian. “Ngọn tiểu khê” đang in những bóng dài lên cung đường; dòng nước quẩn quanh uốn khúc, róc rách; dịp cầu cuối ghềnh bắc ngang,…tất cả như đang ánh lên một nỗi bâng khuâng, nuối tiếc, tiếng nấc rủ rỉ, trơ trọi, vướng mắc đến nao lòng.
Hàng loạt các từ láy được đặc tả như: “nao nao; thanh thanh; nho nhỏ” làm dịu lại khung cảnh chiều tà; không đìu hiu; héo hắt mà vẫn thanh tao, lãng mạn. Dù nhỏ bé, cô quạnh, lững lờ nhưng vẫn đẹp, vẫn dịu nhẹ đến nao lòng người. Một nét vẽ với gam màu ấm lững lờ làm nức lòng bao lữ khách thanh minh.
Các cảnh vật được soi chiếu dưới ống kính từ gần đến xa, từ nhỏ bé đến to lớn. Một vài nét khắc họa lại vẽ được trọn vẹn một bức tranh xế chiều tuyệt đẹp đến thế. Thật huyền diệu và uyên bác biết chừng nào. Một bức tranh muốn đẹp, muốn có hồn, muốn đậm sâu trong lòng độc giả thi không thể không có nhưng dáng dấp nhỏ bé của con người. Nguyễn Du sâu sắc vô cùng khi vận dụng khéo léo quy luật tả cảnh ngụ tình trong thơ văn xưa cổ: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn người có vui đâu bao giờ.” Cảnh vật thời gian như nhuốm màu tâm trạng của lòng người tơ vương:
“Chị em thơ thẩn dang day ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh.”
Nếu như vào tiết trời sáng thanh minh tươi đẹp, dịu mát, căng tràn nhựa sống thì đến đây trời đã về cái cuối chiều, bữa tiệc vui nào cũng đến hồi kết. Con người trở về với cái chốn bình yên, với cái nhịp sống chậm rãi cuối ngày tàn. Những từ láy không chỉ miêu tả tâm trạng mà còn gợi nên lòng người. Hai chữ “thơ thẩn” bộc lộ trạng thái bần thần, nuối tiếc, lạc lõng, bơ vơ của chị em Kiều khi ra về. Hàng loạt các từ láy được đặt liên tiếp cuối mỗi câu thơ: “nao nao; thanh thanh; nho nhỏ” như một điệp khúc láy lại, xoáy sâu vào nỗi vô thức của dòng cảm xúc sâu lắng ấy. Một nỗi buồn da diết, miên man, kéo dài man mác.
Cảnh vật tĩnh lặng nhưng lòng người lại chẳng bình yên. Cụm từ “dang tay” được đặt chen ngang giữa dòng thơ như đang cố níu lại, cố tận hưởng nốt những dư vị ngọt ngào, đẹp đẽ cuối cùng còn sót lại của tiết Thanh minh tháng ba. Và phải chăng “dang tay” như cái ôm sẻ chia, cái ôm đồng cảm với nỗi niềm dạt dào của hai chị em Kiều. Cảnh và người như giao hòa vào nhau, nâng đỡ nhau, tô điểm nhau làm nên một bức tranh cuối ngày thật đẹp, thật hòa quyện, khe khẽ sầu cay.
Đoạn thơ tuy ngắn nhưng lại được tác giả đầu tư công phu nhiều bút pháp nghệ thuật độc đáo, vừa cổ điển vừa hiện đại lại đậm chất thi vị. Nhịp thơ như dòng trôi nhẹ nhàng, lững lờ với các thanh trắc đan xen, nối nhau liên tiếp. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cổ điển đặc sắc. Tất cả đã vẽ nên một bức tranh ánh chiều chan chứa màu sắc; âm thanh; và cả hồn người lay động. Một bức tranh chân thực nhưng lại ý nghĩa, tâm trạng vô ngần. Bức vẽ cũng như cánh cửa mở ra những dự cảm bất lành, chông chênh trong cuộc đời Kiều về sau này.
Hội xuân kết thúc cũng là lúc Kiều trở về với cuộc sống như ngày thường? Nhưng liệu rằng Kiều có còn được “bình yên sống trọn một kiếp người” trốn khuê các? Liệu rằng cuộc sống của Kiều có êm đềm, tươi đẹp như sắc tài của nàng. Bức tranh Cảnh ngày xuân đặc biệt là sáu câu thơ cuối đã hé lộ phần nào cuộc đời của người con gái sắc sảo ấy. Những câu thơ như làm dậy lại một nỗi niềm xưa cũ đầy bâng khuâng luyến lưu đầy dư vị.
-
Nguyên tắc của thơ xưa, khi miêu tả cảnh bao giờ cũng gắn với con người và thể hiện tình cảm của đối tượng. Khung cảnh luôn là vật chiếu, khúc xạ những tâm tư, tình cảm của nhân vật “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Không nằm ngoài nguyên tắc chung đó, thơ Nguyễn Du cũng thể hiện tương tự như vậy. Sáu câu thơ cuối trong đoạn trích Cảnh ngày xuân không chỉ kể về kết thúc ngày hội du xuân, mà còn thể hiện những xúc cảm, suy nghĩ của nhân vật.
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Trời đã về chiều, mặt trời đã dần ngả về phương tây. Trong văn học cổ hay hiện đại, thời gian buổi chiều luôn là khoảng thời gian gợi nhiều nỗi niềm, tâm trạng. Bởi vậy, cái “dang tay” của ba chị em tưởng lại vui, mà hóa ra lại thấm đẫm tâm trạng bâng khuâng, man mác buồn. Thời gian mùa xuân trôi nhanh cũng như ngày lễ hội đi qua. Sau những cái ồn ào, đông vui, tấp nập của không khí mùa xuân là những khoảng lặng khi ngày hội tàn, để lại trong lòng người biết bao tâm sự.
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Khung cảnh hiện lên với những nét bé nhỏ, trong trẻo, tác giả dùng hàng loạt các từ “thanh thanh”, “tiểu”, “nho nhỏ” gợi sự nhỏ bé, mảnh mai của cảnh vật. Dường như về chiều mọi vật đều trở nên thanh mảnh và bé nhỏ hơn, ánh nắng cũng nhạt dần, mờ dần. Bức tranh vừa mơ mộng, nên thơ vừa phảng phất hiu quanh, man mác buồn. Trong bốn câu thơ tác giả còn sử dụng hàng loạt các từ giàu giá trị tạo hình và biểu cảm. Đặc biệt là từ láy “nao nao” gợi lên cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui, đồng thời nó cũng như một dự cảm về những điều sắp xảy ra. Cái “nao nao” ấy vừa thể hiện dư âm của cái đã qua – ngày hội tàn, vừa là dự cảm cho những gì sắp tới – gặp nấm mộ Đạm Tiên. Cách tả tình, tả cảnh của Nguyễn Du thật khéo léo và tinh tế, chuyển cảnh mà có cảm tưởng như chưa hề có bất cứ chuyển động nào. Đó là cái thần tình của người nghệ sĩ tài hoa.
Đầu và cuối tác phẩm Nguyễn Du đã dựng lên hai bức tranh thiên nhiên nhưng đồng thời cũng là hai bức tranh tâm trạng. Bức tranh đầu náo nức, vui tươi, tràn ngập sức sống bao nhiêu thì bức tranh cuối lại đạm đạm, hiu hiu, man mác buồn bấy nhiêu. Khung cảnh không chỉ là cảnh mà còn là tình, là tâm trạng của những trái tim nhạy cảm, dễ rung động, đồng thời cảnh ấy còn mang tính chất dự báo về cuộc gặp gỡ định mệnh của Thúy Kiều phía sau. Qua đó càng khẳng định hơn nữa tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Du.
Để lột tả vẻ đẹp của bức tranh cũng như tâm trạng của nhân vật, Nguyễn Du tỏ ra là người hết sức khéo léo trong việc sử dụng ngôn từ. Ông sử dụng linh hoạt các từ láy: nao nao, tà tà, thanh thanh,… vừa diễn tả khung cảnh vừa miêu tả tâm trạng nhân vật. Ngoài ra cũng cần kể đến giọng điệu thơ tha thiết, luyến tiếc, phảng phất nỗi buồn. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tài ba.
Bằng ngôn từ tài hoa, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình khéo léo, Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh sau hội thật đẹp mà cũng thật buồn. Bức tranh ấy thấm đẫm tâm trạng của những con người trẻ tuổi sau ngày lễ hội vui tươi. Đồng thời bức tranh ấy cũng làm nền cảnh cho sự xuất hiện của các sự kiện tiếp theo.
-
Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ có giá trị lớn về mặt nội dung mà còn thể hiện được bút pháp nghệ thuật tài tình của tác giả. Đặc biệt, sáu câu thơ cuối trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã cho thấy được bút pháp tả cảnh ngụ tình xuất sắc của đại thi hào Nguyễn Du.
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
Sáu câu thơ là cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về – một bức tranh chiều xuân nên thơ và đượm buồn. Bức tranh ấy được tác giả miêu tả với những nét dịu dàng, chậm rãi, nhuốm màu tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của con người. Với bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đầy độc đáo, Nguyễn Du đã gợi lên tâm trạng lưu luyến, tiếc nuối của chị em Thúy Kiều khi phải chia tay hội xuân để ra về:
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về”
Câu thơ ẩn chứa một nỗi buồn sâu xa. Từ láy “tà tà” với nhịp điệu chậm rãi vừa gợi lên hình ảnh mặt trời đang ngả bóng dần vừa gợi lên sự tiếc nuối rằng chị em Thúy Kiều chưa muốn ra về, muốn níu kéo thêm chút khoảnh khắc tươi đẹp của ngày xuân. Từ “thơ thẩn” được sử dụng rất đắt giá, thể hiện sự luyến tiếc khôn nguôi.“Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh”
Cảnh vật không còn rộn ràng, tràn đầy sức sống giống như ở bốn câu thơ đầu tiên của bài thơ nữa mà đã nhuốm tâm trạng của con người. Khi con người đắm chìm trong cảnh xuân đẹp đẽ thì cũng là lúc thời gian lặng lẽ trôi đi. Cảnh xuân dù có đẹp đến mấy rồi cũng sẽ tàn phai. Trời đã xế chiều và cuộc du xuân cũng đã kết thúc, tâm hồn của con người dường như cũng đồng điệu với cảnh vật. Cảnh vật vẫn mang một nét đẹp dịu dàng nhưng chuyển động chậm dần, mang dáng dấp nhỏ bé, phảng phất một nỗi buồn. Những từ láy được sử dụng rất hiệu quả: “tà tà”, “nao nao”, “thanh thanh” không chỉ gợi cảnh mà còn bộc lộ tâm trạng tiếc nuối của con người. Cảnh và người dường như có sự đồng điệu. Khi mà con người lưu luyến thì khung cảnh cũng theo đó mà nhỏ đi như để phù hợp với tâm trạng con người: “ngọn tiểu khê” - dòng suối nhỏ hay như chiếc cầu be bé ở “cuối ghềnh” phía xa xa. Dường như có một linh cảm điều gì đó sắp xảy ra:
“Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
Bốn bề trở nên yên ắng, tĩnh lặng. “Nao nao” là trạng thái của dòng nước dường như để đồng cảm với tâm trạng con người với một nỗi buồn khó tả. Dịp cầu nhỏ bé xinh xinh bắc ngang qua dòng suối tạo nên vẻ đẹp bình yên và thơ mộng. Nguyễn Du dùng từ “nao nao” đầy tinh tế. Tả cảnh nhưng cũng để nói lên tâm trạng con người với một nỗi buồn vô cớ chẳng lí giải được. Cũng giống như những câu thơ mà Nguyễn Du từng viết:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Với sáu câu thơ cuối trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được bút pháp tả cảnh ngụ tình độc đáo. Miêu tả cảnh hay cũng chính là gợi lên tâm trạng của con người. Cảnh không còn náo nhiệt, sôi động nữa mà trở nên dịu dàng, yên ả cũng giống như tâm trạng luyến tiếc, bâng khuâng của chị em Thúy Kiều khi phải chia tay với hội xuân
-
Cảnh ngày xuân là một đoạn trích hay, trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện Kiều đã vô cùng đặc sắc vượt thời gian, dù hàng trăm năm trôi qua thì giá trị nhân văn, nhân đạo và tính nghệ thuật của tác phẩm này vẫn còn sống mãi với thời gian.
Trong đó, 6 câu thơ cuối của đoạn trích "Cảnh ngày xuân" được tác giả Nguyễn Du tái hiện vô cùng rực rỡ, nhiều màu sắc sinh động thể hiện một bức tranh mùa xuân vô cùng tươi đẹp trong ngày lễ hội đầu năm mới. Tác giả Nguyễn Du đã tái hiện lại không khí mùa xuân tươi vui đó với rất nhiều màu sắc khác nhau. Đặc biệt, trong bức tranh mùa xuân đó tác giả còn thể hiện được tâm trạng lưu luyến, tiếc nuối những ngày vui ngắn ngủi, thể hiện một nỗi buồn man mác của chị em Thúy Kiều khi phải trở về nhà trong cảnh chiều tà.
Chỉ có vẻn vẹn 6 câu thơ nhưng bức tranh mùa xuân được nhà thơ Nguyễn Du sử dụng bằng bút pháp vô cùng tinh tế, lắng động trong tâm hồn người đọc.
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Một bức tranh xuân vô cùng rạng rỡ, với một màu xanh non tơ ngút ngàn tầm mắt. Khi mùa xuân về thì cảnh vật, cỏ cây hoa lá như đang cố gắng lấy hết nhựa sống sự tinh túy của mình để khoe sắc khoe hương trong mùa xuân tràn đầy sức sống. Ngày lễ hội của tiết thanh minh thường được tổ chức vào đầu năm. Hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân cũng được đi chơi, được thỏa sức mà vui đùa hưởng thụ những ngày tươi đẹp của tuổi trẻ trong cuộc đời.
Vào những tháng ba, mọi người thường có phong tục đi tảo mộ người người thân đã quá cố không may qua đời của mình. Họ làm việc này vừa thể hiện tình cảm với người đã khuất, thể hiện sự tiếc nhớ đồng thời cũng là cơ hội để mọi người tụ họp nhau lại cùng trò chuyện, tâm tình, trao duyên, và vui đùa với những trò chơi trong năm mới.
Nếu như trong nửa đầu của trích đoạn "Cảnh ngày xuân" nói lên vẻ đẹp ngây ngất nên thơ trữ tình lãng mạn của mùa xuân, thì ở 6 câu thơ cuối của đoạn trích Cảnh ngày xuân lại thể hiện nỗi buồn của một ngày vui những đã tàn, bầu trời chuyển sang màu hoàng hôn, nắng tắt dần, những trò chơi tan rã, khu hội chợ đã vãn mọi người cùng nhau ra về thể hiện một nỗi buồn man mác.
“Tà tà bóng ngả về tâyChị em thơ thẩn dang tay ra về”
Trong hai câu thơ ngày tác giả Nguyễn Du sử dụng từ lấy "Tà tà" thể hiện bóng chiều đang dần buông xuống ở phái Tây của chân trời một cách từ từ chậm chạp. Hai chị em Thúy Kiều dắt tay nhau ra về trong sự tiếc nuối, ngỡ ngàng bởi ngày vui mau chóng qua đi, không biết khi nào còn được dịp tận hưởng một lễ hội Thanh minh vui như hôm nay, ý nghĩa trọn vẹn như hôm nay.“Bước dần theo ngọn tiểu kê
Lần theo phong cảnh có bề thanh thanh”
Hai chị em Thúy Kiều lặng lẽ đi theo những ngọn cỏ ven đường trở về nhà, tác giả Nguyễn Du tuy không miêu tả cụ thể nhưng người đọc vẫn cảm nhận được từng bước chân chậm rãi nuối tiếc vấn vương không muốn đi nhanh của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân khi rời lễ hội trở về nhà. Bỏ lại đằng sau không khí náo nhiệt, vui vẻ với biết bao nhiêu niềm vui của buổi sáng.
Từ láy "thanh thanh" làm cho câu thơ trở nên nhẹ nhàng, tĩnh lặng, nhưng chính cái sự tĩnh lặng êm ái đó lại làm cho cảnh vật khi chiều tà trở nên thơ mộng và không kém phần thi vị hơn lúc sáng, chỉ có điều trầm buồn hơn mà thôi.
“Nao nao dòng nước uốn quanhDịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc qua”
Từ láy "nao nao" là cho câu thơ gợi lên một chút buồn nhè nhẹ, từng nhịp chảy của dòng nước theo dòng suối nhỏ đi về nơi đồng bằng xa xôi, khung cảnh thật nên thơ, trữ tình có hoa có suối, cỏ cây.. Mọi cảnh vật đều vô cùng quen thuộc, mộc mạc giản dị nhưng lại có sức gợi tả trong lòng người đọc ghê gớm. Những phong cảnh quen thuộc đó như dự báo một tương lai nào đó sẽ tới với Thúy KiềuBức tranh cảnh mùa xuân khi chiều tà hoàn toàn đối ngược lại với bức tranh mùa xuân vui tưới náo nhiệt vào buổi sáng. Nhưng dù thời điểm nào thì Nguyễn Du cũng vô cùng tài tình khi phác họa một bức tranh mùa xuân tươi đẹp mang màu sắc riêng của mình.
Chỉ với 6 câu thơ cuối trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân" nhưng người đọc có thể cảm nhận hết sự vấn vương lưu luyến không nỡ rời xa của hai chị em Thúy Kiều khi phải rời hội trở về nhà báo hiệu những ngày tươi vui đã qua rồi một tương lai mới đang chờ phía trước. -
Cảnh ngày xuân" là một trong những trích đoạn đặc sắc thể hiện rõ tài năng nghệ thuật của tác giả Nguyễn Du trong việc miêu tả thiên nhiên. Nếu như ở những câu thơ đầu tiên, tác giả làm nổi bật bức tranh mùa xuân tươi sáng, tràn đầy sức sống vào buổi ban mai thì ở sáu câu thơ cuối, cùng với sự chuyển biến và trôi chảy của thời gian, nhà thơ tập trung miêu tả khung cảnh chiều tà khi lễ hội Thanh minh kết thúc và hai chị em Thúy Kiều ra về. Cảnh vật vì thế cũng nhuốm màu tâm trạng nhờ biện pháp "tả cảnh ngụ tình" đặc sắc.
"Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"
Sáu câu thơ đã miêu tả thành công cảnh chị em Thúy Kiều ra về trên phông nền phảng phất nét đượm buồn của cảnh vật. Khác với bước đi cùng sự trôi chảy nhanh, vội như "con én đưa thoi" ở phần mở đầu đoạn trích, lúc này thời gian trôi đi chậm rãi và nhẹ nhàng: "Tà tà bóng ngả về tây". Hình ảnh mặt trời đang từ từ lặn xuống trong ánh dương xế chiều đã được tác giả tái hiện thành công qua từ láy tượng hình "tà tà", đồng thời gợi lên tâm trạng tiếc nuối, lưu luyến, bâng khuâng qua bước chân có chút tâm tình "thơ thẩn dang tay ra về" của hai chị em Thúy Kiều. Và dường như tâm trạng lặng buồn của con người đã thấm sâu vào cảnh vật. Khung cảnh thiên nhiên không còn hiện lên với sự cao rộng, bao la, bát ngát, khoáng đạt tràn trề sức sống như ở bốn câu thơ đầu tiên mà được miêu tả qua những hình ảnh bé nhỏ, thân thuộc hơn như "ngọn tiểu khê", "dịp cầu nho nhỏ" bắc ngang cuối ghềnh để phù hợp với dòng tâm trạng của con người. Đặc biệt, tác giả đã vận dụng thành công hệ thống từ láy được trải đều trong các câu thơ như "tà tà", "thơ thẩn", "nho nhỏ", "thanh thanh", "nao nao" giàu giá trị biểu cảm.
"Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"
Dòng nước hiện lên qua dòng chảy "nao nao", lững lờ lưu luyến trôi chậm bên chân cầu "nho nhỏ" vừa gợi lên sắc thái của cảnh vật, vừa diễn tả thành công tâm trạng của con người và hoàn toàn thống nhất với bước chân "thơ thẩn" bâng khuâng của nhân vật trữ tình. "Nao nao" cũng chính là tính từ mang tính chất dự báo, linh cảm cho cuộc gặp gỡ sắp tới của Thúy Kiều và chàng Kim. Tác giả đã vận dụng thành công bút pháp trong thơ ca trung đại như tả cảnh ngụ tình để tạo nên mối tương giao, thống nhất giữa cảnh và tình:
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Người buồn cảnh cũng thẫn thờ
Cảnh buồn người cũng ngẩn ngơ ưu sầu"
Như vậy, ở sáu câu thơ cuối, mối quan hệ hai chiều giữa cảnh và tình thể hiện qua việc khi hội tan, con người bâng khuâng, xao xuyến đầy lưu luyến và cảnh vật cũng vì thế không tránh khỏi màu sắc u buồn và ảm đạm. Để miêu tả thành công điều này, tác giả Nguyễn Du đã sử dụng tinh tế bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, đồng thời lựa chọn những hình ảnh, ngôn từ giàu chất tạo hình, thể hiện khả năng bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên.