Top 9 Bài văn đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ hay nhất
"Chuyện người con gái Nam Xương" của tác giả Nguyễn Dữ thuộc tác phẩm "Truyền kì mạn lục" (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), được viết ở ... xem thêm...thế kỉ XVI. "Chuyện người con gái Nam Xương" có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian "Vợ chàng Trương", là thiên thứ 16 trong 20 truyện của "Truyền kì mạn lục". Tác phẩm khẳng định vẻ đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời cảm thương cho số phận bi kịch của họ và lên án, tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo với các hủ tục hà khắc trong chế độ phong kiến đương thời. Toplist sưu tầm và xin giới thiệu với các bạn các bài văn đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương để các bạn học sinh lớp 9 cùng tham khảo.
-
Đản à, hôm nay là tròn mười năm kể từ lúc mẹ con mất. Ta nghĩ có thể sẽ ôm bí mật này suốt đời cho đến khi chết nhưng suy cho cùng thì con cũng đã lớn, ta sẽ không giấu con nữa. Hôm nay ta quyết định sẽ kể lại cái chết oan ức của mẹ con cho con nghe.
Mẹ con hồi đó đẹp lắm, nàng thùy mị, nết na, vừa nhìn là ta mê ngay. Lúc đó, ta liền xin bà nội con đem ngay trăm lạng bạc để hỏi cưới mẹ con về. Biết ta có tính đa nghi và hay ghen nên mẹ con cũng luôn giữ khuôn phép, không để gia đình thất hòa.Vì thế mà gia đình chúng ta luôn có tiếng cười hạnh phúc. Chẳng bao lâu sau, do chiến tranh loạn lạc nên cha bị bắt đi lính trong thời gian mẹ con đang mang thai. Vào cái ngày tiễn đưa, nàng không hề mơ tưởng “đeo ấn phong hầu", chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về bình yên.
Trong ba năm ta đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng người mẹ già của ta, sinh và nuôi dạy con. Với mẹ chồng, mẹ con là một cô con dâu hiếu thảo. Ta đi xa nhà, nàng đã thay ta phụng dưỡng mẹ ta rất chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình.
Khi đi lính trở về, tới nhà thì nghe tin mẹ ta đã mất, con vừa học nói. Tình mẫu tử thiêng liêng, nguồn an ủi vô bờ đối với ta nay không còn nữa. Mẹ mất không được đội tang, ta cảm thấy mình mắc tội bất hiếu, một thứ tội lớn nhất của đời người. Ngay lúc đó, ta đã bế con ra thăm mộ của bà nội con trước. Nhưng dù vậy, ta vẫn là một người con không tròn đạo hiếu. Khát vọng tề gia của ta chẳng khác nào bọt nước chiều mưa.
Trong lúc đó, ta bế con ra mộ bà. Ra đến đồng thì con cứ quấy khóc mãi, ta dỗ cũng không chịu nín. Rồi con bập bẹ nói rằng ban đêm thường có người đàn ông hay lui tới, mẹ con đứng thì đứng, mẹ con ngồi thì ngồi. Đặt vào hoàn cảnh của ta vừa đi chinh chiến về, quá mệt mỏi, ta đang cần một chỗ dựa là gia đình, bên mẹ, bên vợ và bên con nhưng vừa về đến nhà đã gặp bao khổ đau: không có được giây phút hồi hộp, thiêng liêng đón giọt máu của mình chào đời; mẹ già đã ra đi… Bà con mất, niềm hạnh phúc gia đình nhỏ còn lại của ta là vợ và con trai. Vậy nhưng, con nhất định không chịu nhận ta là cha.
Thế nên với bản tính hay ghen và đa nghi, ta liền về nhà với vẻ mặt giận dữ quát lớn cho hả giận. Sau đó đánh đập, mắng nhiếc thậm tệ và đuổi mẹ con ra khỏi nhà. Mặc cho nàng có khóc lóc cố minh oan, mặc cho hàng xóm có giải thích mẹ con trong sạch nhưng ta đều gạt bỏ ngoài tai. Chính vì quá uất ức nên mẹ con tắm rửa chay sạch, rồi gieo mình xuống sông Hoàng Giang mà tự vẫn.
Trong lòng ta dù giận nhưng biết nàng đi tự vẫn cũng động lòng thương xót mà sai người đi vớt xác nàng nhưng không thấy. Rồi một đêm có gió thổi nhè nhẹ, êm dịu, chiếc đèn dầu sáng mập mờ thì con liền thốt lên cha con đã tới và chỉ tay vào cái bóng trên tường. Ta chợt hiểu trong những ngày ta đi xa, vì thương nhớ chồng, vì không muốn con nhỏ thiếu vắng bóng người cha nên hàng đêm, mẹ con đã chỉ bóng mình trên tường, nói dối con đó là cha.
Cũng tại sự ngu dốt, hồ đồ, sự đa nghi mà ta đã giết nàng, ta thấy hối hận lắm nhưng đã quá muộn rồi. Nếu lúc đó, ta bình tĩnh mà nghe nàng giải thích thì có lẽ giờ gia đình ta đang rất hạnh phúc và mẹ con cũng không bị ta bức tử mà rời xa chúng ta. Kể từ lúc mẹ con đi, căn nhà của chúng ta trở nên trống vắng, con thì đêm nào cũng khóc đòi mẹ, còn ta thì chỉ biết ôm nỗi nhớ nàng một mình và giận chính bản thân.
Vài tháng sau, hay tin của Phan Lang là người cùng làng kể cho ta nghe mẹ con sống dưới thủy cung cũng đang rất nhớ con và muốn nhắn nhủ ta lập đàn giải oan cho nàng. Thoạt đầu ta nghe không tin nhưng khi nhận được chiếc hoa vàng mà lúc đi mẹ con mang bên mình thì ta liền sợ hãi làm theo lời Phan Lang. Trong vòng ba ngày ba đêm, cuối cùng cũng gặp được mẹ con bên bến sông Hoàng Giang. Ta cố muốn giữ mẹ con lại nhưng lúc này nàng thoắt ẩn, thoắt hiện rồi từ từ biến mất trong làn sương trắng.
Đã quá muộn để ta nói lời xin lỗi với nàng. Cho đến cuối đời, ta cũng sẽ không quên được cái khoảnh khắc ta bức tử nàng, ta sẽ phải cô đơn và dằn vặt bản thân và chắc đó chính là quả báo mà ông trời dành cho ta.
-
Đã hơn một năm trôi qua, kể từ khi chàng Trương lập đàn giải oan, tôi hiện về nói lời tạ từ rồi ra đi mãi mãi. Tôi cũng đã bình tâm trở lại mà chấp nhận cuộc sống dưới thủy cung với Linh Phi và các nàng tiên trong cung nước. Tuy nhiên trong sâu thẳm trái tim tôi vẫn không nguôi nhớ trần thế, nhớ quê hương, nhớ cuộc sống gia đình hạnh phúc trước kia, đặc biệt là con trai. Những kỉ niệm ấy vẫn luôn hiện về trong tâm trí tôi.
Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, tuy xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng từ nhỏ đã được cha mẹ dạy bảo đến nơi đến chốn nên hiểu mọi lễ nghĩa, biết cư xử đúng mực. Đến tuổi 18 trong làng đã có vài người đánh tiếng trống hỏi tôi, nhưng vì cha mẹ của tôi không muốn tôi vất vả nên đã nhận 100 lạng vàng rồi gả tôi cho Trương Sinh, con một nhà giàu trong làng, thế là tôi được yên bề gia thất nhưng biết chồng có tính đa nghi, hay ghen, tuy là con nhà giàu nhưng đa nghi ít học nên tôi luôn giữ gìn khuôn phép không từng lúc nào để vợ chồng thất hòa.
Cuộc đoàn viên chưa được bao lâu thì đất nước có giặc. Chồng tôi tuy là con nhà giàu nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Tôi và mẹ chồng tôi đều rất buồn, trong buổi tiễn đưa mẹ có dặn dò, tôi cũng nói mong chồng ra trận giữ gìn để trở về được bình yên chứ không cần quan cao tước lớn. Chàng nghe vậy xúc động không nói lên lời dứt áo ra đi. Sau khi chồng đi được mươi ngày thì tôi sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Đản rồi một mình vừa chăm sóc con, một lòng thủy chung chờ đợi mong chồng sớm về đoàn tụ.
Nhưng mẹ chồng tôi vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Tôi hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật rồi khuyên như mong mẹ chóng khỏe. Song vì tuổi già bệnh nặng, vận trời khó tránh nên mẹ chồng tôi qua đời. Trước khi mất bà nói: "Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đầy đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Tôi hết lòng thương xót, lo ma chay tế lễ như với cha mẹ đẻ của mình.
Qua năm sau, giặc tan, chồng tôi trở về bình yên đúng như mong đợi, khi buồn vì mẹ không còn nhưng tôi hy vọng gia đình sẽ hạnh phúc như xưa. Nhưng bé Đản vì chưa gặp cha bao giờ nên không chịu nhận dù tôi đã hết sức dỗ dành, có lẽ là còn trẻ con nên ương bướng. Ngay hôm sau, chàng bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng tổ tiên tạ ơn vừa để báo cho mẹ biết chàng đã về, cho mẹ yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn tụ. Không ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang, buổi trưa hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời tra hỏi tôi trong thời gian chàng đi xa tại sao làm chuyện xấu xa thất tiết trái đạo lý... tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi đã giải thích cho chàng hiểu: Tôi nói đến thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết. Tôi cũng cầu mong van xin chồng đừng nghi oan để cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.
Nhưng chàng không tin, hỏi chuyện kia do ai nói chàng cũng không nói. Làng xóm bênh vực cho tôi cũng chẳng ăn thua gì, chàng vẫn một mực mắng mỏ rồi đuổi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực vì tai họa bất ngờ ập đến nên cố bày tỏ nhưng chàng vẫn lạnh lùng không thay đổi. Biết rằng người có tính cách như chàng thật khó giải thích nên tôi tắm gội chay sạch, suy nghĩ trước sau thấy rằng cuộc đời thật không có ý nghĩa, bao nhiêu vất vả với gia đình, ngay cả tấm lòng thủy chung một mực chăm lo cho mẹ già, con trẻ nhưng bây giờ cũng bị phủ nhận không thương tiếc. Tôi không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan. Tôi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. Nhưng các nàng tiên trong cung nước thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung.
Một hôm tôi gặp Phan lang, người cùng làng trước đây có ơn với Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi cứu. Phan Lang kể chuyện cho tôi: "Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau mọi người nghe chàng ân hận kể lại rằng: Một hôm phòng không vắng vẻ chợt đứa con chỉ cái bóng trên tường của chàng nói là cha Đản. Chàng lúc ấy mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi".
Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa thương chồng con vì không ai chăm sóc. Không kiên nhẫn tìm hiểu nguyên nhân mà quá đau đớn tuyệt vọng mà dẫn tới cái chết. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi đã nói không còn mặt mũi nào quay lại nữa nhưng sau đó vì nhớ quê hương, chồng con, lại mong muốn được giải oan, phục hồi danh dự nên tôi lại nói sẽ quay trở về. Hôm sau Phan Lang trở về dương thế, tôi gửi theo chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương tôi sẽ có ngày trở về dương thế. Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Hoàng Giang với tình cảm chân thành hối lỗi và thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi có ý khuyên tôi nên về với chồng con nhưng tôi vì có nghĩa với Linh Phi và lại hạnh phúc gia đình tan vỡ khó hàn gắn nên không muốn trở về.
Đến ngày thứ ba, giữa trốn trần gian mịt mù khói tỏa thì Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất.
Chuyện của gia đình tôi là câu chuyện buồn: Dù quá khứ đã lùi xa nhưng có lẽ những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt. Riêng bản thân tôi dù đã sống cuộc sống trần gian, nhớ chồng con vẫn chôn kín ở trong lòng khó có thể diễn tả bởi chính cuộc sống ấy đã đẩy tôi đến cái chết. Hy vọng rằng đừng gia đình nào rơi vào bi kịch.
-
Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương người đời yêu quí gọi tôi là Vũ Nương. Tôi vốn con nhà nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp vì thế có bao nhiêu trai làng bám đuổi. Trong đó có chàng Trương Sinh con nhà hào phú xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Chính cuộc hôn nhân khập khiễng này khiến tôi gặp bao điều khó khăn. Ôi số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến này bất hạnh biết bao!
Ngày ấy tôi cũng biết chồng đa nghi hay ghen với vợ phòng ngừa quá sức nên hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện thất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng vui mừng hạnh phúc biết bao nhưng cuộc sống không bao giờ êm ả xuôi chiều mát mái như ta trong đời. Giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi nước ta chồng tôi ít học nên bị bắt đi lính vào loại đầu, chia lìa mất mát đau thương là những gì chiến tranh mang lại. Buổi tiễn đưa tôi chỉ biết rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng mong chàng bình yên trở về. Thấu hiểu khó khăn mà chồng phải chịu. Bày tỏ nỗi khắc khoải nhớ mong của mình.
Thời gian đằm đắm trôi qua đến cữ tôi sinh bé Đản phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Nhưng mẹ chồng tôi nhớ con trai mà sinh ốm tôi đã lấy lời ngọt ngào khuyên lơn mẹ gắng ăn miếng cơm miếng cháo để Trương Sinh về rồi thuốc thang lễ bái thần phật tôi mong mẹ chồng khỏe. Như mẹ tôi đã không qua nổi trước lúc mất bà còn trăn trối lại ghi lại công lao của tôi: "Sau này… phụ mẹ"
Tấm lòng của bà nhân hậu biết bao! Từ đấy chỉ còn có tôi cùng bé Đản. Nhớ thương chồng và muốn bù đắp cho con. Tôi thường chỏ bóng trên tường mỗi tối rồi bảo con "Cha Đảm lại đến kia kìa!". Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.
Thấm thoắt đã 3 năm. May mắn biết bao chồng tôi an lành trở về. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi hạnh phúc như vỡ òa. Biết tin mẹ mất Trương Sinh rất buồn bế con ra thăm mộ mẹ khi chàng vừa trở về "giông tố" đã nổi lên chàng la mắng tôi không tiếc lời một mực bảo tôi hư thân mất nết không thủy chung với chàng. Tai họa ở đâu ập xuống đầu tôi khủng khiếp như vậy tôi khóc lóc phân trần giải thích: "Thiếp vốn con… như lời chàng nói". Có lẽ tất cả những lời phân trần của tôi không thể lọt tai chàng họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Tôi hỏi thì chàng lại giấu. Khiến tôi không thể thanh minh.
Lửa ghen trong lòng chàng mỗi lúc bùng phát dữ dội hơn chàng mắng nhiếc rồi đánh đuổi tôi ra khỏi nhà. Ước mơ bé nhỏ mà cả đời tôi theo đuổi là hạnh phúc gia đình giờ đây không còn nữa. Gia đình không còn nữa. Danh dự bị bôi nhọ. Bị tuyệt vọng tột cùng tôi chỉ biết tìm đến cái chết. Tắm rửa chay sạch tôi ra bến Trường Giang than cùng trời đất chứng giám tấm lòng trong sạch của mình rồi gieo mình xuống sông tự vẫn.
Người ta nói ở hiền gặp lành không ngờ nỗi oan khuất của tôi đã động lòng trời đất các nàng tiên cá đã rẽ một đường nước đưa tôi xuống thủy cung của Lương Phi chốn này đến đài cung điện nguy nga lộng lẫy. Người đối xử với nhau nhân hậu vô cùng thật là cuộc sống mong đợi ước ao! Trong một bữa tiệc. Lương Phi khoản đãi người có ơn cứu mạng, không ngờ tôi gặp Phan Lang – Người cùng làng và cũng là ân nhân của Lương Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh bế con ngồi bên ngọn đèn con trỏ bóng nhận cha, chàng mới thấu hiểu nỗi oan của tôi. Cuộc đời sao mà tàn nhẫn đến vậy chính đứa con tôi hết mực yêu thương đã gieo mầm họa. Chính người chồng tôi hết lòng yêu thương thủy chung đã đa nghi hay ghen hồ đồ đẩy tôi vào chỗ chết.
Phan Lang còn kể cảnh nhà tôi tan tác tiêu điều khiến tôi không thể cầm nước mắt dù vẫn rất giận chàng Trương Sinh, nhưng tôi nhất quyết tìm về có ngày. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn khi chàng lập đàn giải oan bên bến Trường Giang tôi được Phan Lang đưa về trong cảnh võng lọng cờ hoa rực rỡ đầy sông nhưng tôi chỉ biết cảm tạ tình chàng đã giúp tôi minh oan triều tuyết giữa thanh thiên bạch nhật mà không thể trở về trần gian vì tôi không muốn phụ ân đức của Phan Lang. Và cũng bởi thực tế ở đời người chết không thể sống lại được lên hiện loang loáng ở giữa dòng rồi biến mất. Xã hội phong kiến bất bình đẳng này không thể có chỗ dung thân cho những người như tôi.
Chao ôi! Cuộc sống ở cõi trần thật đen bạc! Mong rằng xã hội bất công này sẽ bị xóa bỏ chính tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dung túng cho Trương Sinh có thói gia trưởng đẩy tôi vào cuộc đời oan khuất. Xã hội cần cải tiến xây dựng một cuộc sống bình đẳng nam nữ bình quyền kể ra câu chuyện này tôi còn mong người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ được xây dựng trên cơ sở tin yêu tôn trọng lẫn nhau. Ghen bóng ghen gió sẽ khiến gia đình tan vỡ.
-
Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương. Mọi người trong làng yêu mến thường khen tôi là nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Họ cầu mong cho tôi sẽ lấy được một người chồng xứng đáng và được hưởng hạnh phúc. Tôi đã gặp và thành vợ chàng Trương. Chàng rất mực yêu thương tôi, nhưng lại cũng rất đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình luôn được êm ấm.
Cuộc sống của tôi đang êm đềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chồng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nghĩ chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật, việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, lòng tôi thương chàng vô hạn. Tôi không mong chàng lập công để được ấn phong hầu mà chỉ mong chàng bình an trở về là tôi đã thoả nguyện. Giờ phút chia tay đã hết. Chàng dứt áo ra đi, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhoà lệ, lòng tái tê chua xót.
Ngày tháng khắc khoải trôi qua. Trong lòng tôi, mùa xuân tươi vui bướm lượn đầy vườn; hay mùa đông giá băng ảm đạm, mây che kín núi cũng chỉ là một, bởi nỗi nhớ chàng luôn đằng đẵng, thường trực trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi sinh được một bé trai và đặt tên cháu là Đản. Nhưng mẹ chồng tôi, vì nhớ thương con mà ốm đau mòn mỏi. Tôi đã hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Cảm động trước tình mẫu tử thiêng liêng mẹ dành cho chồng tôi, xót thương mẹ vô hạn, tôi đã lo ma chay chu tất cho mẹ.
Sau bao nhiêu chờ đợi mỏi mòn, nhớ thương khôn xiết, cuối cùng Trương Sinh đã trở về. Tôi vô cùng sung sướng và hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận. Chàng về tới nhà, biết mẹ đã qua đời liền bế con đi viếng mộ mẹ. Lúc trở về, chàng bỗng dưng nổi giận la mắng om sòm. Chàng cho rằng tôi đã phản bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng. Tôi bàng hoàng sửng sốt. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi vừa khóc thổn thức vừa giải thích: "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp". Nhưng bao nhiêu lời nói chân thành, tha thiết cũng không làm chàng tin. Hàng xóm thương tôi cũng bênh vực và biện bạch giúp nhưng rốt cuộc chẳng có kết quả gì. Chàng mắng nhiếc tôi thậm tệ rồi đánh đuổi tôi đi. Lòng tôi đau đớn, xót xa, cay đắng đến tuyệt vọng.
Tôi đã nương dựa vào chàng những mong có một gia đình đầm ấm, hoà thuận, hạnh phúc. Nhưng giờ đây, trâm gãy bình tan, tình cảm vợ chồng sứt mẻ. Dù vẫn thương chồng, thương con tha thiết, nhưng tôi đâu còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Nghĩ vậy, tôi bèn tắm gội sạch sẽ rồi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: "Con duyên phận hẩm hiu, bị chồng con ruồng bỏ. Nếu con giữ gìn trinh tiết mà bị oan thì khi thác xuống xin được làm Mị Nương hoặc cỏ Ngu mĩ. Nếu con phản bội chồng con thì chết đi xin làm mồi cho cá tôm, diều quạ và chịu để mọi người phỉ nhổ". Sau đó, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn. Thần linh thấu hiểu và thương tình đã cho các nàng tiên dưới thuỷ cung cứu vớt, cho tôi nương nhờ trong cung điện của Linh Phi.
Xuống thiên cung, tôi gặp lại Phan Lang - người cùng làng. Nghe Phan Lang kể gia cảnh chồng con tôi, nhà cửa, vườn tược hoang vu, phần mộ mẹ cha cỏ gai rợp mắt, lòng tôi xót thương, ai oán. Được biết chàng Trương đã hiểu đúng ngọn ngành sự việc và vẫn thương nhớ tôi, tôi rất vui, bối rối nhưng lại cũng cảm thấy tủi cực bởi mình vẫn chưa được minh oan. Khi Phan Lang trở lại trần gian, tôi bèn gửi cho Trương Sinh một chiếc hoa vàng và nhắn chàng nếu còn nhớ tới chút tình xưa nghĩa cũ xin lập một đàn giải oan ở bến sông, tôi sẽ về. Trương Sinh liền làm theo. Tôi ngồi trên kiệu hoa về gặp chàng. Thấy tôi, chàng vội gọi. Nhìn chàng và nghe tiếng chàng gọi, lòng tôi bồi hồi, xót xa khôn xiết. Nhưng giữa chúng tôi đã có một khoảng cách không sao hàn gắn được. Tôi cũng đã thề với đức Linh Phi nên không thể trở về nhân gian được nữa. Tôi tạ ơn chàng đã lập đàn giải oan rồi quay lại thuỷ cung dù trong lòng còn bao lưu luyến cõi trần.
-
Tôi tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, mọi người yêu quý hay gọi tôi là Vũ Nương. Tôi vốn con nhà nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp vì thế có bao nhiêu trai làng bám đuổi. Trong đó có chàng Trương Sinh con nhà hào phú. Và cuộc đời tôi cũng thay đổi từ đó.
Chàng đem lòng yêu mến bèn xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Có lẽ, cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối này khiến cuộc sống của tôi gặp bao khó khăn. Có lẽ, số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến này chính là khổ cực biết bao!
Về nhà chồng chẳng được bao lâu, tôi cũng biết tính chồng đa nghi hay ghen với vợ nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện bất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng nên càng vui mừng hạnh phúc biết bao. Nhưng cuộc sống không bao giờ như ta trong đời, giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi, chồng tôi ít học nên bị bắt đi sung binh loại đầu, đoàn viên chưa được bao lâu đã phải chia lìa. Buổi tiễn đưa tôi chỉ biết rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng chỉ mong chàng bình yên trở về không cầu công danh, áo gấm.
Thời gian chẳng mấy trôi qua, đến ngày tôi sinh bé Đản, đứa con bé bỏng phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Nhưng mẹ chồng tôi vì nhớ mong con trai mà càng ngày sức khỏe càng kém, tôi đã lấy lời khuyên lơn mẹ gắng ăn miếng cơm miếng cháo để chờ chồng về rồi cả thuốc thang lễ bái thần phật mong mẹ mau khỏe. Như mẹ tôi tuổi già lại có nhớ mong quá độ đã không qua nổi. Trước lúc mất bà còn trăn trối lại: "Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ."
Mẹ chồng mất, tôi hết lòng ma chay như với mẹ thân sinh vậy. Kể từ đó, tôi chỉ còn bé Đản. Thương con chưa gặp cha lần nào, tôi bèn nghĩ cách trỏ bóng trên tường mỗi tối rồi bảo con "Cha Đản lại đến kia kìa!". Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.
Vậy là, thấm thoắt đã 3 năm, giặc Chiêm chịu rút về nước. May mắn biết bao khi thấy chồng bình an trở về. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi, hạnh phúc như vỡ òa. Biết tin mẹ mất Trương Sinh rất buồn, chàng bèn bế con ra thăm mộ mẹ nhưng tôi chẳng ngờ đâu từ khi chàng trở về lại la mắng tôi không tiếc lời một mực bảo tôi hư thân mất nết không thủy chung với chàng. Tự dưng tai họa ở đâu ập xuống đầu, tôi ngỡ ngàng liền phân trần giải thích: "Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, ….., đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa". Nhưng mọi thứ tôi nói đều không thể lọt tai chàng, họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Tôi hỏi thì chàng lại giấu khiến tôi không biết làm sao để thanh minh nữa. Cuối cùng, chàng đuổi tôi ra khỏi nhà. Chẳng thể ngờ sau 3 năm chia cách, 3 năm ngóng trông, để rồi hạnh phúc mà tôi cố vun đắp giờ đây chẳng còn nữa. Tuyệt vọng cùng cực, tôi chẳng thiết gì nữa. Danh dự không còn liền để nước sông Trường Giang chứng giám tấm lòng trong sạch của mình, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn.
Không nghĩ tới, nỗi oan khuất của tôi động lòng trời đất, các nàng tiên cá rẽ một đường nước đưa tôi xuống thủy cung của Linh Phi, tôi bèn an cư tại chốn này.
Trong một bữa tiệc Linh Phi khoản đãi người có ơn cứu mạng, không ngờ tôi gặp Phan Lang – người cùng làng với tôi và cũng là ân nhân của Linh Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh đã thấu hiểu nỗi oan của tôi. Thì ra chàng hiểu lầm chỉ vì lời nói vô tư của con nhỏ, chỉ vì chàng đa nghi, ghen tuông hồ đồ mà khiến gia đình tôi ra nông nỗi này. Phan Lang kể rằng nhà tôi giờ tan tác tiêu điều khiến tôi không thể cầm nước mắt dù vẫn rất giận chồng nhưng tôi vẫn quyết định tìm ngày về. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn kêu Trương Sinh lập đàn giải oan bên bến Trường Giang.
Khi thấy chồng và con tôi thật sự muốn trở về nhưng người chết nào đâu có thể sống lại. Nỗi oan khuất được giải trừ, tôi chỉ được lên hiện loang loáng ở giữa dòng rồi biến mất. Chỉ thương con côi cút không có mẹ chăm nom, thương cho tình nghĩa phu thê chưa tròn.
Tôi chỉ mong rằng xã hội bất công này sẽ bị xóa bỏ, và từ câu chuyện cuộc đời của tôi để người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc. Hạnh phúc gia đình không chỉ được xây dựng trên cơ sở tình yêu mà nó còn phải ở cả sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau.
-
Tôi là Vũ Nương, con gái một gia đình nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần về lễ nghĩa, đức hạnh. Năm ấy, Trương Sinh vì yêu mến dung hạnh mà xin mẹ trăm lạng vàng đến cưới tôi về làm vợ.
Trương Sinh chồng tôi, vốn là người đa nghi, đối với vợ phòng ngừa hết mức. Tôi biết tính chàng như thế nên cũng giữ gìn khuôn phép, không lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa. Sum vầy, êm đềm chẳng được bao lâu thì quân Chiêm quấy nhiễu biên cương, chồng tôi tuy là còn nhà hào phú nhưng ít học, nên bị ghi tên đi lính vào loại đầu.
Ngày tiễn chồng nên đường, tôi chỉ biết rót chén rượu đầy tiễn đưa, chỉ cầu mong giặc dữ sớm ngày quy phục, chàng được bình an trở về, không cầu áo gấm, công danh. Nghĩ đến tháng ngày cách biệt, tôi không thể kìm được nước mắt.
Đương thời lúc bấy giờ tôi đang mang thai đầu, chàng đi chẳng được bao lâu tôi bèn sinh con và đặt tên con là Đản. Có con trai, tôi phần nào vơi bớt nỗi nhớ chồng. Nhưng mẹ chồng tôi vì tuổi già, lại nhớ mong con khiến bà sinh bệnh năng. Thay chồng tận hiếu tôi hết mực thuốc thang, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn nhưng mẹ không qua nổi, trước khi đi mẹ để lại những trăn trối tha thiết rồi tắt thở. Tôi đau lòng lo ma chay cho mẹ. Vậy là chỉ còn mẹ con tôi quặn quẽ trong căn nhà lớn nhà.
Mừng rỡ thay, sau 3 năm thì giặc tan, chồng tôi bình yên trở về đúng như mong đợi. Khi biết tin mẹ mất, chàng bèn bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng bái tổ tiên tạ ơn phù hộ để chồng bình an, vừa để báo cho mẹ biết để yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn viên gia đình. Không ngờ giây phút đó chẳng có, buổi trưa khi hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời trách mắng tôi mất nết hư thân… tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi cố gắng giải thích rằng thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết.
Thế nhưng, dù hết lời phân giải, làng xóm bênh vực nhưng chàng nhất mực không tin lại nặng lời đuổi tôi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực, không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan. Đứng trên bến Trường Giang, tôi ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. Ngờ đâu, Linh Phi - vợ vua Thủy Tề, thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung và để tôi lưu lại ở đó.
Một hôm tôi gặp Phan Lang - người cùng làng trước đây đã có ơn với Linh Phi, được Linh Phi cứu khi gặp nạn. Phan Lang kể chuyện cho tôi: “Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau nghe con nói về chuyện cái bóng là cha mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi”.
Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa cho chính mình, lại thương chồng con vì không ai chăm sóc. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, tôi lại mong muốn được giải oan nên tôi nhờ Phan Lang trở về với chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương lập đàn giải oan bên bờ Trường Giang.
Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Trường Giang thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi cũng có ý khuyên trở về gia đình. Đến ngày thứ ba, Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi biến mất. Dù giải oan nhưng liệu rằng chuyện quá khứ vẫn còn đó. Bản thân tôi đã quá sợ cuộc sống trần gian cay nghiệt, sự bất công của xã hội phong kiến thối nát. Có lẽ trở về cũng chẳng sống được những tháng ngày bình yên, vì vậy khi được giải nỗi oan này, tôi liền biến mất.
Mong rằng qua câu chuyện của tôi thì các bạn sẽ rút ra được bài học về hạnh phúc gia đình. Hãy tin tưởng lẫn nhau, chia sẻ và thấu hiểu mới có thể duy trì được mái ấm tưởng trừng là cứng cáp nhưng nó thật sự quá mong manh.
-
Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương, mọi người trong làng yêu mến thường khen tôi là nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Tôi đã gặp và trở thành vợ chàng Trương. Chàng rất mực yêu thương, nhưng lại vốn tính đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình luôn được êm ấm.
Cuộc sống của tôi đang êm đềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi mặc dù con nhà hào phú nhưng lại ít học, vì vậy phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chàng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn.Tôi không mong chàng lập công lao cao cả để được ấn phong hầu mà chỉ mong chàng có thể bình an trở về. Giờ phút chia tay, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhòa lệ, lòng tái tê chua xót.
Đương thời lúc đó tôi đang mang thai, đến thời điểm, tôi sinh được một bé trai kháu khỉnh và đặt tên con là Đản. Nhưng mẹ chồng tôi, vì nhớ thương con mà ốm đau triền miên. Tôi đã hết lòng thuốc thang, khuyên lơn nhưng vì bệnh tình trầm trọng mẹ không qua khỏi. Tôi đã cố gắng lo ma chay chu tất cho mẹ, thay chồng làm tròn chữ hiếu.
Sau 3 năm chờ đợi mỏi mòn, nhớ thương khôn xiết, cuối cùng Trương Sinh cũng bình an trở về. Tôi vô cùng hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận. Lúc bấy giờ, bé Đản đã bập bẹ biết nói. Về đến nhà, hay tin mẹ mất, chàng đau đớn bồng con ra thăm mộ mẹ. Đến trưa trở về, chẳng hiểu vì cơ sự nào, chàng đùng đùng nổi giận, chưa thèm hỏi han một câu đã quát mắng, sỉ nhục đủ điều. Tôi chẳng hay biết chuyện gì cả, gạn hỏi để giãi bày mối nghi ngờ nhưng chàng chẳng thèm nghe lấy một lời, chỉ biết ghen bóng ghen gió, giận hờn rồi đánh đuổi. Chàng cho rằng trong thời gian chàng ở nơi chiến trận, tôi ở nhà đã thất tiết, không giữ trọn đạo vợ chồng. Hàng xóm nghe tiếng hết lời can ngăn, giãi bày hộ tôi nhưng chẳng tiếng nào lọt tai chàng.
Tủi nhục cùng đau xót làm sao, tôi chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, chịu đựng đòn roi và lời lẽ mắng nhiếc của chàng, chỉ mong sao chàng thấy được tấm chân tình của tiện thiếp nhưng có lẽ mọi việc không như tôi mong đợi.
Nỗi oan chẳng thấu, lại mang tiếng thất tiết phụ chồng làm sao gột rửa đây? Tôi nghĩ chỉ có cái chết mới chứng minh sự trong sạch của mình.
Tôi chạy ra bến Trường Giang ngửa mặt lên trời mà thề rằng mình bạc mệnh, duyên phận cũng hết, mong rửa sạch nỗi oan thất tiết, tỏ ra tấm lòng thuỷ chung, trinh bạch, một trái tim luôn hướng về chồng con. Nói xong tôi liền gieo mình xuống sông.
Ngờ đâu, nỗi oan của tôi động lòng chư tiên cứu vớt, rẽ nước cho xuống thủy cung. Tuy cuộc sống giờ đây sung sướng, nhàn hạ chốn nhưng nỗi nhớ thương chồng con da diết vẫn không thể nguôi ngoai trong lòng thiếp.
Không lâu sau, hay tin Linh Phi gặp được ân nhân đã cứu mình thuở xưa. Đến dự tiệc thì tôi ngạc nhiên vì người đó chính là Phan Lang - người cùng làng với tôi. Ông nhận ra tôi và kể lại cho tôi biết cuộc sống hiện tại của gia đình tôi. Ông nói rằng chồng tôi đã biết rằng đã trách oan tôi, vô cùng ân hận, ông cũng khuyên tôi nên trở về cuộc sống trần gian. Tôi gửi trao chiếc hoa vàng và dặn ông nói lại với chàng Trương nếu chàng ấy còn chút tình xưa thì hãy lập đàn giải oan ở bến sông thì tôi sẽ vẽ. Chẳng lâu sau, làm đúng như lời dặn của tôi, chàng Trương lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Trường Giang.
Khi thấy được chồng con tôi thật nghĩ rằng mình muốn trở lại trần gian nhưng liệu rằng cuộc sống vợ chồng có còn được lại như xưa, xã hội này có vì thế mà có thay đổi? Đứng ở giữa dòng trên chiếc kiệu hoa, nói vọng ra: ”Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể về trần gian được nữa”. Giờ đây, tôi đã không trở về trần gian được nữa! Tôi thấu hiểu rằng nhân gian oan nghiệt không còn chỗ nào để cho mình dung thân.
-
Tôi vốn là con nhà khó nghèo, được cha mẹ dạy bảo ân cần về lễ nghĩa, đức hạnh. Năm ấy, Trương Sinh vì yêu mến dung hạnh mà xin mẹ trăm lạng vàng đến cưới tôi về làm vợ. Trương Sinh chồng tôi, vốn là người đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Tôi biết tính chàng như thế nên cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa. Tôi tưởng là chúng tôi sẽ sống sum vầy, êm đềm như vậy đến đầu bạc răng long. Thế nhưng, ông trời cay nghiệt, không cho chúng tôi sum vầy diên niên. Hạnh phúc chưa được bao lâu thì quân Chiêm quấy nhiễu biên cương, Trương tuy là còn nhà hào phú nhưng không có học, nên bị ghi tên đi lính vào loại đầu.
Tôi chỉ biết rót chén rượu đầy tiễn đưa. Chàng xông pha nơi trận mạc, tôi chỉ cầu mong giặc dữ sớm ngày quy phục, chàng được bình an trở về, không cần chức tước mà nguy hiểm mạng sống. Nghĩ đến tháng ngày cách biệt, tôi không thể kìm được nước mắt đã ứa trong mắt tôi mà chảy xuống.
Bấy giờ, tôi lại đang có mang. chàng đi chẳng được bao lâu tôi hạ sinh và đặt tên con là Đản. Có con trẻ, tôi phần nào vơi bớt nỗi mất mát nhớ chồng. Mẹ chồng tôi nhớ con tuổi già nên sinh bệnh nặng, tôi muốn thay phần chồng tôi phục vụ người mẹ già nên hết sức thuốc thang, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Nhưng mẹ không qua nổi, trước khi đi mẹ trăn trối lại những lời tha thiết rồi tắt thở. Tôi đau lòng lo ma chay cho mẹ. Vậy là chỉ còn tôi với bé Đản quặn quẽ trong căn nhà lớn nhà.
Qua năm sau, giặc tan, chồng tôi trở về bình yên đúng như mong đợi, khi buồn vì mẹ không còn nhưng tôi hy vọng gia đình sẽ hạnh phúc như xưa. Nhưng bé Đản vì chưa gặp cha bao giờ nên không chịu nhận dù tôi đã hết sức dỗ dành, có lẽ là còn trẻ con nên ương bướng. Ngay hôm sau, chàng bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng tổ tiên tạ ơn vừa để báo cho mẹ biết chàng đã về, cho mẹ yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn tụ.
Không ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang, buổi trưa hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời tra hỏi tôi trong thời gian chàng đi xa tại sao làm chuyện xấu xa thất tiết trái đạo lý… tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi đã giải thích cho chàng hiểu: tôi nói đến thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết. Tôi cũng cầu mong van xin chồng đừng nghi oan để cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.
Thế nhưng, dù tôi hết lời phân giải chàng nhất mực không tin. Làng xóm bênh vực cho tôi cũng chẳng ăn thua gì, chàng vẫn một mực mắng nhiếc rồi đuổi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực vì tai họa bất ngờ ập đến nên cố bày tỏ nhưng chàng vẫn lạnh lùng không thay đổi. Biết rằng người có tính cách như chàng thật khó giải thích nên tôi tắm gội chay sạch, suy nghĩ trước sau thấy rằng cuộc đời thật không có ý nghĩa, bao nhiêu vất vả với gia đình, ngay cả tấm lòng thủy chung một mực chăm lo cho mẹ già, con trẻ nhưng bây giờ cũng bị phủ nhận không thương tiếc. Tôi không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan.
Đứng trên bến Hoàng Giang, tôi ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. May thay, Linh Phi, vợ vua Thủy Tề, thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung và cho tôi lưu lại ở đó.
Một hôm tôi gặp Phan lang, người cùng làng trước đây có ơn với Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi cứu. Phan Lang kể chuyện cho tôi: “Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau mọi người nghe chàng ân hận kể lại rằng: một hôm phòng không vắng vẻ chợt đứa con chỉ cái bóng trên tường của chàng nói là cha Đản. Chàng lúc ấy mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi”. Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa thương chồng con vì không ai chăm sóc. Không kiên nhẫn tìm hiểu nguyên nhân mà quá đau đớn tuyệt vọng mà dẫn tới cái chết. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi đã nói không còn mặt mũi nào quay lại nữa nhưng sau đó vì nhớ quê hương, chồng con, lại mong muốn được giải oan, phục hồi danh dự nên tôi lại nói sẽ quay trở về. Hôm sau Phan Lang trở về dương thế, tôi gửi theo chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương tôi sẽ có ngày trở về dương thế.
Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Hoàng Giang với tình cảm chân thành hối lỗi và thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi có ý khuyên tôi nên về với chồng con nhưng tôi vì có nghĩa với Linh Phi và lại hạnh phúc gia đình tan vỡ khó hàn gắn nên không muốn trở về. Đến ngày thứ ba, giữa trốn trần gian mịt mù khói tỏa thì Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất.
Dù quá khứ đã lùi xa nhưng có lẽ những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt. Riêng bản thân tôi dù đã sống cuộc sống trần gian, nhớ chồng con vẫn chôn kín ở trong lòng khó có thể diễn tả bởi chính cuộc sống ấy đã đẩy tôi vào con đường tận tuyệt, dứt tình với nhân gian. Linh Phi nhiều lần động viên tôi trở về đoàn tụ với gia đình nhưng tôi luôn từ chối ân đức áy. Bởi tôi thấu hiểu rằng trần gian oan nghiệt đã không còn chỗ nào cho tôi dùng thân nữa.
-
Chàng Trương Sinh vốn là người cùng làng với tôi. Bởi cảm mến, chàng đã đem lòng thương yêu và cùng tôi kết tóc xe duyên, hứa hẹn sẽ cùng chung sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long. Biết tính chàng hay ghen nên tôi cũng cố gắng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.
Năm ấy, quân giặc quấy nhiễu biên cương, chàng tuy là con nhà hào phú nhưng không có học, nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào đầu. Trước khi ra đi mẹ chàng dặn dò cặn kẽ mọi việc. Vào thời binh đao loạn lạc này, mẹ chỉ mong chàng giữ gìn thân mình, phải toan tính kĩ rồi hãy làm, gặp khó nên lui. Tôi rót chén rượu đầy cho tiễn chồng mà trong lòng rối bời, não nề khi nghĩ đến sự khó nhọc, những gian nguy mà chàng sắp gặp phải. Tôi chẳng dám mong đem được ấn phong hầu, chẳng cần chàng” mặc áo gấm trở về quê cũ”. Tôi chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ. Lúc bấy giờ, tôi đang mang trong mình giọt máu của chàng. Sau khi xa chàng vừa đầy tuần thì sinh ra một đứa con trai, đặt tên là Đản.
Thời gian cứ trôi đi, chẳng đợi chờ ai và chưa bao giờ cảm thương cho ai bao giờ. Khoảng nửa năm sau khi Trương lang tòng quân xa nhà, vì thương con quá mức, một phần vì tuổi già sức yếu, mẹ chồng tôi lâm bệnh nặng. Biết mẹ già không vững được bao lâu nữa, tôi vô cùng thương xót, ngày đêm lễ bái thần phật, chăm chút thuốc men, luôn an ủi và động viên mẹ. Nhưng vận trời khó tránh, sức cùng lực kiệt, bà đã giã từ cuộc sống. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, bà còn gửi lời tha thiết mong nhớ con và cảm ơn tôi trong những ngày qua đã làm tốt bổn phận của mình. Tôi vô cùng đau đớn tột cùng, vừa thương, vừa xót. Sau đó, tôi hết sức lo ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình. Từ khi ấy, tôi đã hứa với lòng: phải cố gắng chăm sóc, nuôi dạy con thơ, luôn trọn dành tình yêu của mình cho chồng nơi xa xôi. Cho đến tận năm sau, bọn giặc đầu hàng rút quân khỏi bờ cõi đất nước, cuộc sống nhân dân lại được yên bình, chàng cũng được trở về quê cũ.
Lúc bấy giờ, Đản đã bập bẹ biết nói. Về đến nhà, hay tin mẹ mất, chàng đau đớn bồng con đến viếng mộ mẹ. Đến trưa, lúc về từ mộ mẹ trở về, chẳng hiểu vì cớ nào, chàng đùng đùng nổi giận, chưa thèm hỏi han một câu đến tôi mà la um lên, quát mắng, sỉ nhục đủ điều. Tôi chẳng hay biết chuyện gì cả, gạn hỏi để giãi bày mối nghi ngờ nhưng chàng chẳng thèm nghe lấy một lời, chỉ biết ghen bóng ghen gió, giận hờn rồi đánh đuổi thậm tệ. Chàng cho rằng trong thời gian chàng ở nơi chiến trận, tôi ở nhà đã thất tiết, không giữ trọn đạo vợ chồng. Hàng xóm nghe tiếng, vội đến can ngăn, giãi bày, chàng cũng không nghe. Tôi hết sức buồn tủi cho chính mình. Chẳng biết phải làm thế nào, tôi chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, chịu đựng đòn roi và lời lẽ mắng nhiếc của chàng, chỉ mong sao chàng thấy được tấm chân tình của tiện thiếp nhưng có lẽ mọi việc không như tôi mong đợi.
Chàng càng lúc càng nóng, trút hết đòn roi lên thiếp, rồi đuổi tôi đi. Đất trời cao rộng nhưng tôi biết đi đâu. Lại mang tiếng thất tiết phụ chồng, nỗi oan tày trời này sao gột rửa được. Nước mắt chảy cạn mà lòng chàng vẫn còn cố chấp. Tình nghĩa bao năm giờ vơi cạn gần hết. Xót con còn bé bỏng, lại thêm thân mình phải chịu tiếng nhuốc nhơ, tôi quyết quyên sinh để chứng minh mình trong sạch. Bất đắc dĩ, thiếp đành đoạn tuyệt tình nghĩa vợ chồng với chàng, tắm gội chay sạch, tiện thiếp chạy ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà thề rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ.Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng,vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.”. Nói xong, tôi gieo mình xuống sông sâu, mong rửa sạch nỗi oan thất tiết, tỏ ra tấm lòng thuỷ chung, trinh bạch, một trái tim luôn hướng về chồng con.
Nào ngờ, Linh Phi động lòng đã cứu vớt tôi. Khi tỉnh lại, tôi đã thấy mình nằm trong “cung cấm đền dao” của Người rồi. Tuy sống sung sướng, nhàn hạ chốn “làng mây cung nước” nhưng nỗi nhớ thương gia đình da diết vẫn không thể nguôi ngoai trong lòng thiếp. Linh Phi cũng an ủi và cảm thông khiến lòng tôi phần nào bớt đau khổ.
Không lâu sau, hay tin Linh Phi gặp được ân nhân cứu mình thuở xưa. Đến dự tiệc ở gác Triêu Dương, tôi ngạc nhiên vì người đàn ông chính là Phan Lang, người cùng làng với tôi ở Nam Xương. Khi mới gặp lại, có lẽ ông ấy không nhận ra tôi, nhưng sau khi nghe tôi giãi bày, ông Phan khuyên tôi nên trở về cuộc sống trần gian. Tôi gửi trao chiếc hoa vàng cho chàng Trương Sinh và dặn Phan nói lại với chàng Trương nếu chàng ấy còn chút tình xưa với tôi thì hãy lập đàn giải oan ở bến sông. Chẳng lâu sau, làm đúng như lời dặn của tôi, chàng Trương lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang.
Đứng ở giữa dòng, tôi ngôi trên chiếc kiệu hoa, nói vọng ra: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể về trần gian được nữa”. Giờ đây, tôi sẽ dừng chân ở chốn làn mây cung nước này, mãi mãi chôn vùi cuộc đời ở nơi đây, không trở về trần gian nữa vì tôi thấu hiểu rằng nhân gian oan nghiệt không còn chỗ nào để cho mình dung thân.