Top 7 Bài văn phân tích hào khí chiến thắng và khát vọng hoà bình trong Phò giá về kinh (Ngữ văn 7) hay nhất
Nói đến những chiến công hào hùng trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, không thể không nhắc những chiến công hiển hách chống quân Mông - Nguyên của ... xem thêm...triều đại nhà Trần. Chính niềm hân hoan chiến thắng ấy đã tạo nên hào khí Đông A chói lọi trong từng trang sử dưới thời Trần. Một trong số những tác phẩm thể hiện rõ nhất hào khí chiến thắng và khát vọng hòa bình của dân tộc, đó là bài thơ "Tụng giá hoàn kinh sư" (Trần Quang Khải). Dưới đây là những bài văn phân tích hào khí chiến thắng và khát vọng hoà bình trong Phò giá về kinh (Ngữ văn 7) hay nhất mà Toplist đã sưu tầm và tổng hợp.
-
Trong chặng đường lịch sử oai hùng của dân tộc, nhà Trần đã cắm những mốc son chói lọi với ba lần chiến thắng quân xâm lược Mông-Nguyên, tạo nên một thời đại oanh liệt với hào khí Đông A bất tử.
Hào khí ấy bao trùm cả núi sông và in dấu ấn đậm nét trong bài thơ Phò giá về kinh của Trần Quang Khải:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Chương Dương là một bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, nơi diễn ra trận thuỷ chiến ác liệt vào tháng 6 năm 1285. Còn Hàm Tử là một địa danh thuộc tả ngạn sông Hồng, nơi diễn ra trận quyết chiến mở màn cuộc phản công của quân dân nhà Trần tháng 4 năm 1825. Hai trận chiến ác liệt đã tạo nên hai chiến thắng lẫy lừng, làm xoay chuyển cả cục diện chiến tranh. Từ thế “bị động” phải rút lui để bảo toàn lực lượng, ta chuyển sang thế chủ động tiến công địch (cướp giáo giặc, bắt quân thù). Hai câu thơ 10 tiếng đã khắc hoạ tư thế của dân tộc vào hình thế núi sông anh linh muôn thuở, với bản lĩnh quả cảm vô song, với phong thái ung dung, đường hoàng, làm chủ tình thế, “đứng trên đầu thù” (đoạt sóc, cầm Hồ).
Ta hãy đọc lại hai câu thơ:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Bình dị thế thôi mà nghe âm vang cả tiếng trống trận thúc liên hồi, tiếng gươm khua, giáo đập, tiếng hò reo dậy đất. Từ hai câu thơ cô đọng, hàm súc, người đọc cảm nhận được cái không khí chiến tranh, cái hào khí Đông A “Ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu” (Phạm Ngũ Lão), cả hình ảnh oai phong lẫm liệt của tướng sĩ nhà Trần. Một cảm xúc hân hoan, tràn ngập trong tâm hồn vị chiến tướng thắng trận đang kiêu hãnh trở về kinh đô trong sự đón chào nồng nhiệt của nhân dân.
Hào quang chiến thắng làm cho người ta ngây ngất nhưng không choáng ngợp. Nên ngay trong lúc đang tận hưởng niềm vui chiến thắng, Trần Quang Khải đã mong ước một nền thái bình muôn thuở cho đất nước:
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu.
Nhà Trần đã đi qua hai cuộc chiến tranh với bao đau thương nên họ rất hiểu rõ giá trị của cuộc sống thái bình, bởi nó được đổi bằng biết bao nước mắt và máu xương. Dường như Trần Quang Khải nhắc đến hai chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử như chỉ để nhắc nhở mọi người phải biết trân trọng máu xương của cha ông đã đổ để mà chung lòng góp sức, đem hết tài năng và nhiệt huyết (tu trí lực) vào công cuộc kiến thiết nước nhà, sao cho non nước này bền vững đến ngàn thu.
Thái bình nên gắng sức - Non nước ấy nghìn thu, tự bản thân niềm mong ước ấy đã đẹp lắm rồi, tha thiết lắm rồi. Nhưng nó càng đẹp hơn, tha thiết hơn bởi nó là niềm suy tư trăn trở của một vị tướng xuất thân từ tầng lớp đại quý tộc nhà Trần, ngay trong lúc khói lửa binh đao còn chưa tan hẳn, “bụi trường chinh” còn bám đầy trên chiến giáp.
Bài thơ mở ra bằng hào khí chiến thắng và khép lại bằng khát vọng hoà bình. Hai nguồn cảm xúc lớn lao ấy đã nâng bài thơ lên một tầm cao để nghìn đời sau người đời còn được chiêm ngưỡng.
-
Nói đến những chiến công hào hùng trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, không thể không nhắc những chiến công hiển hách chống quân Mông - Nguyên của triều đại nhà Trần. Chính niềm hân hoan chiến thắng ấy đã tạo nên hào khí Đông A chói lọi trong từng trang sử dưới thời Trần. Một trong số những tác phẩm thể hiện rõ nhất hào khí chiến thắng và khát vọng hòa bình của dân tộc, đó là bài thơ "Tụng giá hoàn kinh sư" (Trần Quang Khải).
Như chúng ta đã biết, dưới triều đại nhà Trần, nước Đại Việt ta phải đương đầu với quân Mông - Nguyên xâm lược. Đây là đội quân nổi tiếng là thiện chiến và tàn bạo nhất thời kỳ ấy, sử cũ còn ghi lại: Vó ngựa của chúng đi đến đâu đến từng cái cây, ngọn cỏ cũng không còn. Nhưng bằng tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng đồng thuận quyết chiến đấu đến cùng, nhân dân Đại Việt đánh đuổi kẻ thù xâm lược ra khỏi bờ cõi. Một số hai vị tướng kiệt xuất thời Trần giữ quyền chỉ huy tối cao trong hai lần đánh đuổi quân Mông - Nguyên liên tiếp vào năm 1285, 1287 là Trần Quang Khải - ông cũng là tác giả bài thơ. Bài thơ này ông viết sau ngày đại thắng lần thứ hai của dân tộc, đem lại nền thái bình cho đất nước, Trần Quang Khải nhận được lệnh đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông, về Thăng Long trong niềm vui chiến thắng hân hoan. Bài thơ đã sâu sắc thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần.
Với thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, trước hết, bài thơ "Tụng giá hoàn kinh sư" đã thể hiện hào khí chiến thắng của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần:
Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Trong hai câu mở đầu bài thơ, tác giả đã nhắc đến hai chiến thắng lẫy lừng có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cuộc kháng chiến là: Chương Dương và Hàm Tử, và trong trận Chương Dương Trần Quang Khải chính là vị tổng chỉ huy tối cao. Hai câu thơ đối ngẫu rất chỉnh, nghệ thuật đảo ngữ với một loạt các động từ mạnh "đoạt", "cầm" đưa lên đầu câu, kết hợp với nhịp thơ nhanh, gấp, nhịp 2/3 , tác giả đã phần nào tái hiện và làm nổi bật không khí chiến đấu vô cùng mạnh mẽ và quyết liệt của quân, dân ta. Đồng thời cho thấy tư thế làm chủ, chủ động tiến công quân giặc của ta. Trận chiến Chương Dương vốn diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) còn trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285). Theo lẽ thông thường trận chiến nào diễn ra trước sẽ được nhắc đến theo trình tự thời gian, nhưng ở đây tác giả đang sống trong tâm trạng hân hoan của chiến thắng Chương Dương mà gợi nhớ lại chiến thắng Hàm Tử cách đó hai tháng. Không cần phải sử dụng đến quá nhiều ngôn ngữ mà chỉ bằng hai câu thơ ngũ ngôn ngắn ngủi nhưng cũng đủ để vị tướng nhà Trần giúp cho người đọc cảm nhận được hào khí chiến thắng ngất trời của quân ta, đồng thời gợi lên trong lòng người đọc niềm tự hào sâu sắc về sức mạnh của dân tộc Đại Việt ta.
Bài thơ "Tụng giá hoàn kinh sư " không chỉ thể hiện hào khí chiến thắng mà còn thể hiện sâu sắc khát vọng hòa bình của dân tộc ta:
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.
Vậy là, dù đang trong không khí chiến thắng hừng hực ấy, vị chủ tướng Trần Quang Khải vẫn tỉnh táo và suy nghĩ thấu đáo vô cùng! Với giọng điệu tha thiết, chân thành mang tính chất động viên khuyên nhủ, ông đã tự nhắc nhở mình và cũng là để nhắc mọi người: Không thể vì quá say sưa với niềm vui chiến thắng mà quên mất trách nhiệm xây dựng non sông đất nước. Khi đất nước đã thái bình, nhân dân ta cần tập trung hết sức vào việc xây dựng đất nước, có như vậy đất nước mới trường tồn mãi mãi. Câu thơ vừa là lời động viên xây dựng, phát triển đất trong hòa bình vừa thể hiện niềm tin sắt đá vào sự bền vững muôn đời của đất nước.
Đọc bài thơ "Tụng giá hoàn kinh sư" của tác giả Trần Quang Khải, mỗi chúng ta không chỉ cảm thấy tự hào về truyền thống đấu tranh giữ nước bất khuất của cha ông, mà hơn thế nữa chúng ta còn tự hào bởi lịch sử ngàn xưa đã chứng minh Việt Nam luôn là một đất nước khao khát cuộc sống thái bình!
-
Có lẽ không một quốc gia, dân tộc nào trên thế giới mong muốn bị xâm lăng, không một ai trong nhân loại thích sống trong cảnh loạn lạc chiến tranh. Bởi vậy, khi quân thù xâm chiếm bờ cõi, không thể làm làm gì khác ngoài đứng lên đấu tranh. Và những chiến thắng hào hùng trước kẻ xâm lăng luôn là niềm tự hào, là động lực và ý chí để nhân dân các dân tộc bị áp bức để đấu tranh. Bài thơ “Phò giá về kinh” của Trần Quang Khải như một khúc ca khải hoàn về hào khí chiến thắng và khát vọng hoà bình ấy.
“Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù”
Chương Dương và Hàm Tử là hai trận địa diễn ra cuộc chiến ác liệt của quân dân nhà Trần với quân xâm lược Mông Nguyên. Hai chiến thắng ấy là những chiến công hiển hách, lẫy lừng, vang tiếng bốn phương của nhân dân đã làm thay đổi tình thế giữa ta và địch. Quân ta từ thế bị động, sang thế tấn công để giành thắng lợi. Hai câu thơ chỉ mười tiếng thôi mà âm hưởng vang dội núi sông, như hiện lên trước mắt người đọc cả cuộc chiến ác liệt, có tiếng hô vang, tiếng trống chiêng dội non sông. “Cướp giáo giặc”, “bắt quân thù” - tư thế hiên ngang, oai phong trong trận chiến, bản lĩnh và uy quyền, oai phong lẫm liệt. Hào khí chiến trận như hào khí Đông A của con dân đời Trần vậy - đồng lòng, quyết chí vì nghĩa lớn với tinh thần quyết thắng không gì có thể lay chuyển nổi. Câu thơ ngập tràn niềm vui niềm hứng khởi, hân hoan trong chiến thắng vẻ vang.
Khi đã giành chiến thắng, trải qua những vất vả và gian nan, hơn bao giờ hết ta lại càng trân trọng và khát vọng hoà bình. Và tinh thần, niềm khát khao mãnh liệt ấy được Trần Quang Khải thể hiện trong hai câu cuối:
“Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san”
Sau bao đau khổ, đổ biết bao máu và nước mắt, hàng ngàn tính mạng phải đánh đổi, ta lại càng trân quý hơn thời khắc hoà bình, tự do. Tác giả đã nhắn nhủ đến quân thần, đến nhân dân về ý thức bảo vệ dân tộc, cùng nhau đồng lòng góp sức xây dựng đất nước phát triển trong thái bình thịnh trị để cho đất nước mãi ngàn năm được trường tồn, bền vững. Niềm mong ước của tác giả như thay lời muốn nói cho ước nguyện của nhân dân. Sự trăn trở của muôn người về việc xây dựng, kiến thiết nước nhà tốt đẹp ngàn năm.
Hào khí chiến thắng và khát vọng hoà bình là tư tưởng chủ đạo âm vang xuyên suốt tác phẩm. Bài thơ tuy ngắn nhưng ý nghĩa đong đầy, chứa đựng ước mong, suy nghĩ của một tư tưởng lớn, một nhân cách lớn.
-
Trần Quang Khải (1241 - 1294) là con thứ ba của vua Trần Thánh Tông. Ông được phong chức thượng tướng vì có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông (1284 - 1287) và là một trong những anh hùng đã đem tài thao lược làm nên chiến công Chương Dương, Hàm Tử lừng lẫy muôn đời. Trần Quang Khải không chỉ là một võ tướng kiệt xuất mà còn là một thi sĩ tài hoa.
Bài thơ Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) được sáng tác trong hoàn cảnh thượng tướng cùng đoàn tùy tùng đi đón hai vua Trần (vua cha Trần Thánh Tông và vua con Trần Nhân Tông) về Thăng Long sau khi kinh đô được giải phóng. Hình thức bài thơ tuy ngắn gọn, cô đúc nhưng đã thể hiện được hào khí chiến thắng và khát vọng lớn lao của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần. Tác giả đã ghi lại hai chiến công vang dội của quân và dân Đại Việt vào xuân - hè năm Ất Dậu 1285.
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
(Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù.)
Chương Dương là bến sông nằm ở phía hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (cũ), nay là Hà Nội. Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải trực tiếp chỉ huy. Hàm Tử là địa danh ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên. Chiến thắng Hàm Tử vào tháng 4 cùng năm do tướng Trần Nhật Duật lãnh đạo cùng với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
Đây là những trận thủy chiến dữ dội nổ ra trên chiến tuyến sông Hồng. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4, tướng Trần Nhật Duật chém được Toa Đô. Hai tháng sau, Trần Quang Khải đại thắng giặc Nguyên - Mông tại Chương Dương. Hàng vạn tên lính xâm lược bị tiêu diệt, hoặc bị bắt làm tù binh. Quân ta chiếm được nhiều chiến thuyền, vũ khí và lương thảo của giặc.
Hai cụm từ: Đoạt sáo (cướp giáo) và Cầm Hồ (bắt giặc) được đặt ở đầu mỗi câu thơ giống như những nốt nhấn trong khúc ca đại thắng. Giọng thơ sảng khoái, hào hùng, phản ánh khí thế bừng bừng của dân tộc ta thời ấy. Từ vua quan, tướng sĩ đến dân chúng ai cũng hả hê, sung sướng, tự hào.
Hai câu thơ ngũ ngôn tứ tuyệt với nhịp thơ nhanh, gấp và các động từ biểu thị động tác mạnh mẽ, dứt khoát (đoạt: cướp lấy; cầm: bắt) thể hiện nhịp độ dồn dập, sôi động, quyết liệt của chiến trận. Tác giả không nói nhiều về những chiến công và cũng không tỏ ra say sưa với chiến thắng nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được niềm phấn khởi, kiêu hãnh vô bờ toát lên từ âm hưởng của bài thơ.
Mùa hè năm Ất Dậu là một mốc son trọng đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Hiện thực sôi động đã truyền cảm hứng vào những vần thơ hùng tráng khiến bài thơ mang đậm phong vị anh hùng ca. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp liệt kê và phép đối để làm nổi bật hai sự kiện lịch sử mang tầm chiến lược. Chiến thắng Chương Dương diễn ra sau nhưng lại được nói đến trước là do nhà thơ đang sống trong không khí hào hùng của chiến thắng Chương Dương vừa diễn ra. Kế đó, nhà thơ làm sống lại không khí sôi động của chiến thắng Hàm Tử trước đó chưa lâu.
Hai chiến công Chương Dương độ và Hàm Tử quan đã làm thay đổi cục diện thế trận của quân ta. Từ chỗ rút lui theo chiến lược, quân ta đã tiến lên phản công như vũ bão. Mới ngày nào, 50 vạn quân Nguyên do tướng Thoát Hoan cầm đầu ồ ạt sang cướp phá nước ta. Kinh thành Thăng Long chìm trong khói lửa ngút trời. Hai mũi tấn công của giặc từ Nam Quan đánh xuống, từ Chiêm Thành đánh ra, kẹp lại như hai gọng kìm sắt. Vận nước lúc đó như "chỉ mành treo chuông" nhưng với tài thao lược của các vị danh tướng, quân ta đã lấy đoản binh chế trường trận, lấy yếu đánh mạnh. Với chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử, quân ta đã giáng sấm sét xuống đầu lũ giặc phương Bắc hung hăng, ngạo mạn. Kinh thành Thăng Long được giải phóng. Quân xâm lược đã bị quét sạch ra khỏi bờ cõi nước ta.
Trần Quang Khải là nhà thơ đầu tiên đã đưa địa danh sông núi Đại Việt thân yêu vào thơ ca. Cái tên Chương Dương và Hàm Tử đã in đậm vào lịch sử chống ngoại xâm, vào lịch sử văn chương như một dấu son chói lọi. Phải là người trong cuộc, tha thiết yêu non sông gấm vóc của đất nước mình, Trần Quang Khải mới viết được những câu thơ hào hùng đến thế! Hai câu thơ sau:
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.)
Đây là lời vị thượng tướng động viên dân chúng hãy bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong hòa bình và tin tưởng sắt đá vào sự bền vững muôn đời của Tổ quốc. Danh tướng Trần Quang Khải vừa từ chiến trường trở về, áo bào còn vương khói súng, chưa kịp nghỉ ngơi đã lo ngay đến nhiệm vụ trước mắt cũng như kế sách lâu dài cho quốc gia, dân tộc. Ông nhấn mạnh: Trong thời bình, mọi người cần phải dốc hết sức lực để xây dựng non sông. Nước mạnh, dân giàu thì mới đánh tan được tham vọng ngông cuồng của giặc ngoại xâm, đồng thời chủ quyền độc lập mới được giữ gìn lâu dài. Điều đó chứng tỏ Trần quang Khải vừa là một chiến tướng, vừa là một vị đại thần có tài kinh bang tế thế, luôn đặt trách nhiệm với dân, với nước lên hàng đầu.
Ngôn ngữ bài thơ Phò giá về kinh rất giản dị nhưng ý tưởng chứa đựng bên trong thật lớn lao. Khi Tổ quốc đứng trước họa xâm lăng thì vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức (Trần Quốc Tuấn). Trong hòa bình, từ vua quan đến tướng sĩ, từ vương hầu đến chúng dân, ai ai cũng phải tu trí lực để đất nước Đại Việt được trường tồn. Câu thơ hàm chứa một tư tưởng vĩ đại, cho thấy tầm nhìn xa rộng và sáng suốt của Trần Quang Khải.
Tuy bài thơ ra đời cách đây gần tám trăm năm nhưng cho đến nay ý nghĩa của nó vẫn còn nguyên vẹn. Bài học rút ra từ bài thơ là nếu chúng ta không chăm lo xây dựng đất nước hùng mạnh, dân trí mở mang thì làm sao chống lại được ý đồ xâm lược, đồng hóa của các thế lực phản động nước ngoài đang rình rập, nhòm ngó đất nước ta?!
Tương tự bài Sông núi nước Nam, bài thơ Phò giá về kinh cũng thể hiện lòng yêu nước theo kiểu mộc mạc, tự nhiên nhưng mạnh mẽ, hào hùng. Hai bài thơ đều phản ánh bản lĩnh vững vàng, khí phách hiên ngang của dân tộc ta. Một bài nêu cao chủ quyền độc lập thiêng liêng, khẳng định nước Nam là của vua Nam, không kẻ nào được phép xâm phạm, nếu cố tình xâm phạm tất sẽ chuốc lấy bại vong. Một bài thể hiện khí thế hào hùng và bày tỏ khát vọng xây dựng, phát triển đất nước trong hòa bình với niềm tin đất nước sẽ bền vững nghìn thu.
Bài Phò giá về kinh của Trần Quang Khải là một kiệt tác trong thơ văn cổ. Ý thơ hàm súc, cô đọng; ngôn ngữ thơ giản dị, gợi cảm. Bài thơ thể hiện niềm tự hào to lớn về sức mạnh chiến thắng của dân tộc ta và làm sống lại những năm tháng hào hùng đánh đuổi quân xâm lược Nguyên - Mông. Đồng thời nó nhắc nhở mỗi người Việt Nam phải biết nâng cao ý thức trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước thanh bình, giàu đẹp, bền vững muôn đời.
-
Trần Quang Khải (1241-1294) vừa là một võ tướng kiệt xuất của nhà Trần, ông là người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên, đặc biệt trong hai trận chiến lớn ở Hàm Tử và Chương Dương. Không chỉ vậy ông còn là một thi sĩ nổi tiếng với rất nhiều những tác phẩm có giá trị trong đó không thể không kể tới bài thơ “Phò giá về kinh”. Đây là tác phẩm tiếp nối mạch nguồn cảm hứng yêu nước của thời đại nhà Trần, thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng về một đất nước thái bình thịnh trị của dân tộc.
Sau chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử, kinh đô Thăng Long được giải phóng, Trần Quang Khải đích thân đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông hồi kinh, bài thơ “phò giá về kinh” được viết trong hoàn cảnh ấy. Trong không khí chiến thắng hào hùng ấy, bài thơ cất lên như một bản anh hùng ca của đất nước. Hai câu thơ đầu, tác giả gợi lại hai trận chiến oanh liệt hào hùng của dân tộc ta với âm vang tự hào:
“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan”
Chương Dương và Hàm Tử là hai địa danh nổi tiếng gắn với hai trận đánh lịch sử của dân tộc được tác giả trực tiếp nhắc tới trong câu thơ. Đối với quân dân nhà Trần, chỉ cần nhắc tới hai chiến công vang dội có tính chất quyết định thành bại ấy cũng đủ để cất lên âm điệu tự hào, ngợi ca. Tác giả không miêu tả diễn biến trận chiến, cũng không diễn tả cảnh binh đao trận lửa mà chỉ kể lại bằng cách liệt kê nhưng như thế cũng đủ để ta hình dung được không khí trận mạc cùng tính chất gay go, căng thẳng của cuộc chiến.
Đặc biệt để nói về chiến thắng, nhà thơ chỉ sử dụng hai cụm động từ “đoạt sáo, cầm hồ” với sức gợi mạnh mẽ, khẳng định quân ta luôn trong thế chủ động, tự tin, lấn át và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược cho dù chúng là ai. Trong phần dịch nghĩa, tác giả sử dụng từ dùng từ “cướp” để dịch thoát nghĩa cho từ “đoạt” trong phiên âm, tuy nhiên nó đã làm mất đi sắc thái ý nghĩa của hành động. “Cướp” thiên về sự phi nghĩa, trái với đạo lí, dùng sức mạnh để chiếm đoạt của người khác, nó đã làm mất đi sự hào hùng vốn có của hành động “đoạt” là tư thế chủ động, tự tin của phe chính nghĩa tước đoạt dã tâm xâm lược của kẻ thù. Với giọng điệu hào hùng, sôi nổi kể lại những chiến công oanh liệt, hào hùng cùng của dân tộc cùng hào khí chiến đấu, chiến thắng vẻ vang của quân và dân nhà Trần, hai câu thơ đầu đã cho thấy niềm vui sướng, hạnh phúc và đầy tự hào của nhà thơ, đồng thời đó cũng là sự biểu hiện cụ thể của tình yêu đất nước.
Không ngủ quên trong chiến thắng, càng sung sướng, tự hào về chiến công bao nhiêu thì quân và dân nhà Trần càng quyết tâm để giữ gìn sự hòa bình, thịnh trị của dân tộc bấy nhiêu. Với giọng điệu dứt khoát, đầy tự tin Trần Quang Khải đã lên tiếng để nói về khát vọng ấy.
“Thái bình tu chí lực
Vạn cổ thử giang san”
Đến hai câu thơ này, giọng điệu trở nên trầm lắng, niềm vui, niềm hân hoan, hạnh phúc dường như tạm lắng lại, thay vào đó là phút suy tư sâu lắng về vận nước. Triều đại vừa trải qua cơn phong ba bởi nạn giặc xâm lược, đất nước còn bao điều bộn bề lo toan, thân làm chủ tướng, Trần Quang Khải làm sao không suy nghĩ, lắng lo cho được. Trong câu thơ, tác giả đã nhấn mạnh có thái bình rồi nên phải gắng sức dựng xây thì non nước mới được thịnh trị muôn đời. Câu thơ cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một vị chủ tướng tài ba. Đó vừa là lời hứa quyết tâm cùng chung tay góp sức xây dựng đất nước, cũng vừa là lời nhắc nhở con cháu đời sau về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với đất nước, dân tộc. Hai câu thơ khiến ta trân trọng, kính phục và cảm động biết bao trước tấm tấm lòng yêu nước thương dân và tài năng thao lược tài ba của người con tài giỏi nhà Trần.
Với thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt ngắn gọn mà dồn nén cảm xúc, “phò giá về kinh” của Trần Quốc Tuấn vừa ngợi ca chiến thắng hào hùng của dân tộc, vừa thể hiện niềm tin sắt đá vào sự bền vững muôn đời của đất nước. Bài thơ được xem là bản hùng ca hòa trong dàn đồng ca yêu nước của dân tộc cùng với các tác phẩm như Nam Quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình ngô đại cáo,...Những khúc ca ấy đã khơi gợi trong mỗi chúng ta tình yêu đất nước và ý thức bảo vệ, xây dựng, giữ gìn đất nước trong mỗi người.
-
Trận chiến Mông-Nguyên thắng lợi, quân dân đất nước mừng rỡ trước chiến công hiển hách của mình. Sức mạnh của quân giặc cũng phải chịu đầu hàng trước khí thế dùng mạnh và tinh thần quật cường chiến đấu của quân ta. Nỗi xúc động và niềm tự hào khôn nguôi còn mãi trong trái tim mỗi người lúc ấy. Trước sự kiện ấy, Trần Quang Khải đã viết nên những vần thơ thép, hùng hồn "Phò giá về kinh":
"Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm tử bắt quân thù
Thái bình tu trí lực
Non nước ấy ngàn thu"
Hai câu đầu tác giả đã tái hiện lại những chiến công hào hùng của quân đội nhà Trần. Bằng nghệ thuật đảo ngữ, hai nơi diễn ra trận đánh được nhấn mạnh thể hiện rõ niềm tự hào lớn lao của tác giả. Những động từ mạnh kết hợp với danh từ như "cướp giáo", "bắt quân thù" cho thấy sự chủ động và sức mạnh của quân ta trên mọi trận chiến. Trận Chương Dương tuy diễn ra sau nhưng được liệt kê trước như một sự sắp đặt có ý đồ của tác giả. Đang sống trong niềm hứng khởi của chiến nhưng vẫn không quên những ngày hào hùng, sung sướng trong thắng lợi năm xưa. Hào khí chiến đấu mạnh mẽ tiêu biểu cho hào khí của một thời đại- hào khí Đông A. Lời thơ hùng hồn, tự hào, ta như hình dung được trước mắt mình khung cảnh chiến đấu nơi trận chiến oanh liệt ấy.
"Thái bình tu trí lực
Non nước ấy ngàn thu"
Sau khi đánh đuổi quân giặc, nhân dân được tự do, yên ấm. Song, để có được hoà bình ấy phải đánh đổi bao máu và nước mắt, bao người phải hy sinh thân mình nơi chiến trận, bởi vậy mà cần phải ý thức được công cuộc bảo vệ và dựng xây đất nước. Không nên ngủ quên trên chiến thắng, hãy gắng sức mình, rèn luyện quân đội, xây dựng lực lượng vững mạnh, trí và lực cùng nhau cộng tác để gây dựng cơ đồ, đất nước mới được thái bình, thịnh trị: "Non nước ấy ngàn thu".
Đó là trách nhiệm của mỗi người và cũng là lời gửi gắm của vị tướng sĩ tới muôn dân, muôn người lúc bấy giờ và cả những thế hệ sau. Đất nước muôn ngàn năm tồn tại vững bền phải là sự hợp lực, quyết tâm cao độ, gắng sức kiên trì. Hai câu thơ cuối thể hiện trí tuệ anh minh và tầm nhìn chiến lược của người anh hùng yêu nước. Yêu nước không chỉ có đấu tranh, yêu nước còn cần phải xây dựng phát triển nước nhà ngày một giàu mạnh hơn để nhân dân ngàn năm mãi được sống trong hoà bình, tự do. Vận mệnh đất nước luôn nằm trong tay ta, do ta quyết định, được hay mất, tồn tại hay không tồn tại đều từ sự nỗ lực, ý thức của nhân dân.
Bài thơ ngũ ngôn vô cùng cô đọng, hàm súc, lời ít ý nhiều tạo nên ấn tượng mạnh. Những chiêm nghiệm được đưa ra sau những chiến thắng lẫy lừng của dân tộc như một sự đúc rút thực tiễn đầy khách quan, từ đó, tạo niềm tin và thúc giục mọi người hành động, quyết tâm cao.
Đọc bài thơ , em thấy mình thật may mắn khi được sống trong hoà bình hôm nay, những mong ước, nhắn nhủ của người anh hùng Trần Quang Khải đang ngày được thế hệ sau tiếp thu, nêu cao tinh thần quyết tâm thực hiện. Em thầm hứa sẽ cố gắng học thật giỏi, luyện sức, luyện tài, trau dồi đạo đức thật tốt để sau này có thể cống hiến thật nhiều cho đất nước thân yêu.
-
Cuộc kháng chiến quân Mông – Nguyên đã qua đi nhưng những hồi ức thắng lợi vẫn còn vang vọng mãi cho đến bây giờ . Nhắc đến cuộc kháng chiến này ta không thể không nhắc đến Trần Quang Khải – vị tướng tài kiệt xuất đã có công lớn trong cuộc kháng chiến này. Và ông cũng chính là thi sĩ tài hoa sáng tác ra bài thơ “Phò giá về kinh", cho chúng ta sống lại khí thế hào hùng lúc bấy giờ. Bài thơ đã thể hiện được hào khí chiến thắng và khát vọng của dân tộc ta
“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử Quan
Thái bình tu nỗ lựcVạn cổ thử giang san”
Dịch thơ:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu
Mở đầu bài thơ là chiến công vang dội của quân và dân Đại Việt và mùa hè năm Ất Dậu năm 1285:
Đoạt sáo chương dương độ
Cầm hồ Hàm Tử Quan
Chương Dương và Hàm Tử Quan là hai địa danh lừng lẫy lưu danh sử sách. Trước hết là Chương Dương là bến sông nằm phía hữu ngạn sông Hồng thuộc Hà Tây cũ, trận đánh này do Trần Quang Khải trực tiếp chỉ huy. Hàm tử là địa danh ở tả ngạn sông Hồng, trận này do tướng Trần Nhật Duật lãnh đạo cùng với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải . Hai thắng lợi này đã khiến quân giặc khiếp sợ mà thể hiện tài năng đánh giặc của Trần Quang Khải. Ngay khi đọc hai câu thơ ta đã thấy 2 cụm từ đặt đầu câu: Đoạt sáo (cướp giáo ), Cầm hồ (bắt giặc ). Nó là một điểm nhấn trong khúc ca đại thắng vậy. Hơn thế nữa hai từ này là động từ mạnh thể hiện nhịp độ dồn dập, quyết liệt sôi động của chiến trận. Giọng thơ sảng khoái hào hùng phản ánh khí thế của nhân dân ta lúc bấy giờ. Tác giả không dừng lâu trong chiến công cũng không say sưa với chiến thắng nhưng ta vẫn cảm nhận được niềm phấn khởi , kiêu hãnh toát ra từ âm hưởng của bài thơ.
Mùa hè năm Ất Dậu chính là mốc son chói lọi trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của chúng ta . Những chiến công hiển hách đã truyền cảm hứng vào những vần thơ hùng tráng khiến bài thơ mang đậm phong vị anh hùng ca . Trần Quang Khải thật tài tình khi sử dụng biện pháp liệt kê và phép đối để làm nổi bật hai sự kiện lịch sử mang tầm chiến lược. Chắc hẳn còn sống trong không khí hào hùng của chiến thắng Chương Dương vừa diễn ra nên ông đã đặt nó lên trước, kế đó là trận đánh Hàm Tử Quan được diễn ra trước đó không lâu.
Hai trận đánh này đã lật ngược tình thế đưa nước ta từ thế bị động sang thế chủ động , giáng một đòn mạnh đến quân giặc khiến chúng phải khiếp sợ. Chương Dương và Hàm Tử Quan chính dấu ấn quan trọng thể hiện thắng lợi của dân tộc ta. Phải là người yêu quê hương, đất nước da diết thì Trần Quang Khải mới viết được những vần thơ hào hùng đến thế . Không ngủ quên trong chiến thắng ông đã nghĩ ngay đến việc xây dựng và phát triển đất nước trong hòa bình:
Thái bình tu nỗ lực
Vạn cổ thử giang san
Ông nhấn mạnh trong thời bình mọi người cần phải dốc sức xây dựng non sông đất nước , nước mạnh dân giàu mới khiến bọn giặc không bén mảng tới cũng như giữ gìn được độc lập lâu dài. Không những là một vị tướng tài ba, Trần Quang Khải còn là một vị quan có tài trong việc quản lý sắp xếp mọi việc. Ông luôn đặt vấn đề lo cho nước cho dân lên hàng đầu. Những câu thơ dường như rất giản đơn ngắn gọn nhưng ý tưởng bên trong thật to lớn. Khi Tổ quốc gặp nạn chúng ta cần đồng lòng đánh đuổi giặc ngoại xâm, còn khi hòa bình chúng ta từ các quan đại thần đến nhân dân cần dốc sức một lòng xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh. Qua đây ta thấy được tầm nhìn xa trông rộng của ông. Đến tận bây giờ bài học được rút ra từ bài thơ vẫn được áp dụng đến tận nay: phải chăm lo xây dựng đất nước thì mới giữ gìn hòa bình cuộc sống nhân dân mới ấm no hạnh phúc đừng ngủ quên trong chiến thắng
Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn Trần Quang Khải đã thể hiện được khí thế hào hùng và bày tỏ được khát vọng xây dựng đất nước, giữ gìn hòa bình. Bài thơ cũng là một lời nhắc nhở mỗi người dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước .