Bài soạn "Hịch tướng sĩ" số 3
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Tác giả
Trần Quốc Tuấn: (1231?-1300) tước Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc.
Năm 1285, 1287 quân Mông - Nguyên xâm lược nước ta ông được cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần kháng chiến đều thắng lợi vẻ vang.
Sau khi ông mất, nhân dân tôn ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi trên đất nước.
2. Thể loại
Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài.
Hịch có kết cấu chặt chẽ, có lĩ lẽ sắc bén, có dẫn chứng thuyết phục. Đặc điểm nổi bật đó là khích lệ tình cảm, tinh thần người nghe.
Thường được viết theo kiểu văn biền ngẫu, kết cấu thay đổi linh hoạt tùy theo mục đích và nghệ thuật lập luận của tác giả.
3. Tác phẩm
Hịch tướng sĩ viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai (1285). Ở bài hịch này, tác giả không nêu phần đặt vấn đề riêng vì toàn bộ bài hịch là nêu vấn đề và giải quyết vấn đề.
Bài Hịch này được làm để khích lệ tinh thần tướng sĩ học tập Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn soạn thảo.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2
Bài hịch có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn.
Bài làm:Bài hịch có thể chia thành 4 đoạn:
Đoạn 1 (từ đầu đến "đến nay còn lưu tiếng tốt."): tác giả nêu ra các gương "trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước" đã được lưu truyền trong sử sách để khích lệ lòng người.
Đoạn 2 (từ "Huống chi ta" đến "ta cũng vui lòng."): từ việc phơi bày bộ mặt xấu xa của sứ giặc, tác giả bày tỏ lòng căm thù giặc sâu sắc.
Đoạn 3 (từ "Các ngươi ở cùng ta" đến "không muốn vui vẻ phỏng có được không ?"): từ khắc sâu mối gắn bó ân tình giữa chủ và tướng, tác giả phân tích rõ thiệt hơn, được mất, đúng sai để chấn chỉnh những sai lạc trong hàng ngũ tướng sĩ và đi đến việc vạch ra đường hướng hành động đúng, hứa hẹn tương lai.
Đoạn 4 (từ "Nay ta chọn binh pháp" đến hết): nêu ra việc trước mắt phải làm và kết thúc bằng những lời khích lệ nghĩa khí tướng sĩ.
Câu 2: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2
Sự ngang ngược và tội ác của giặc được lột tả như thế nào? Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được điều gì ở tướng sĩ?ài làm:
Sự ngang ngược và tội ác của giặc được lột tả như sau:
Những hành động thể hiện sự tham lam tàn bạo: đòi ngọc lụa, hạch sách bạc vàng, vét kiệt của kho có hạn, hung hãn như hổ đói, ngang ngược đi lại nghênh ngang ngoài đường, bắt nạt tể phụ.
Những hình ảnh ẩn dụ "lưỡi cú diều", "thân dê chó" để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương.
Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được: lòng căm thù giặc, khích lệ tinh thần yêu nước bất khuất, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của tướng sĩ.
Câu 3: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2
Phân tích lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn qua đoạn văn tác giả tự nói lên nỗi lòng mình.
Bài làm:
Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn trước hết thể hiện qua những hành động và thái độ của ông
Hành động: "tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa". Đó là những hành động diễn ra thường xuyên, theo mức độ tăng tiến dần: từ không ăn, đến không ngủ, đến ruột đau như cắt cuối cùng là nước mắt rơi đầm đìa.
Thái độ: uất ức, căm tức khi chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho đất nước. Những câu văn biền ngẫu và những động từ mạnh liên tiếp được sử dụng chỉ trong một đoạn văn ngắn "chưa xả được thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù".
=> Những câu văn biền ngẫu, dài với những vế câu ngắn tạo thành nhịp điệu hối hả, gấp gáp cũng đồng thời thể hiện sự căm thù giặc đến tận xương tủy, sự phẫn uất đến nghẹn lòng và lòng yêu nước sâu sắc của vị chủ tưởng khi chứng kiến cảnh tượng giặc ngoại xâm giày xéo lên mảnh đất cha ông, nhân dân ta chịu nhiều khổ nhục.
Đặc biệt thể giả thể hiện quyết tâm của mình bằng câu văn: "Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng". Câu nói giống như một lời thề đầy sức mạnh của người chủ tướng. Cũng vì thế mà khơi dậy được ý chí chiến đấu của binh sĩ dưới trướng của mình.
Câu 4: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2
Sau khi nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai trái của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý gì? Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào vấn đề gì? Tại sao phải như vậy?
Bài làm:
Sau khi nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai trái đồng thời khẳng định những hành động đúng của tướng sĩ:
a) Những hành động sai trái
Nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn
Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không thấy tức, nghe nhạc thái thường để đãi yến mà không thấy căm
Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con,
Hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh
Hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát
b) Những hành động đúng nên làm
Nên nhớ câu "đặt mồi lửa vào dưới đống củi" là nguy cơ, nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" là răn sợ.
Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên; khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Cao Vương ở Cao Nhai
Tác giả liệt kê những hành động sai trái của tướng sĩ là có dụng ý: phê phán và thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.
Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào vấn đề: đề cao tinh thần cảnh giác, chăm lo rèn luyện để chiến thắng kẻ thù xâm lược, để khi giặc tấn công bất ngờ ta cũng không ở thế bị động mà luôn chủ động, sẵn sàng chiến đấu trong bất kì hoàn cảnh nào.
Tác giả tập trung vào việc đề cao tinh thần cảnh giác bởi vì: bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục đích cao nhất chính là kêu gọi tinh thần yêu nước quyết chiến quyết thắng với ngoại xâm.
Câu 5: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2
Giọng văn là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền hay là lời người cùng cảnh ngộ? Là lời khuyên răn bày tỏ thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo? Cách viết của tác giả có tác động tới tướng sĩ như thế nào?
Bài làm:
Giọng văn được tác giả biến đổi rất linh hoạt, có khi là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền, có khi là lời người cùng ảnh, lúc là lời khuyên răn bày tỏ thiệt hơn, khi lại là lời nghiêm khắc cảnh cáo.
Việc thay đổi giọng điệu một cách linh hoạt trong bài hịch của tác giả có tác động mạnh mẽ tới tới tướng sĩ:
Sự thay đổi giọng điệu như vậy phù hợp với nội dung cảm xúc và thái độ của tác giả, rất phù hợp với đặc trưng của một bài hịch, một bài phủ dụ binh lính
Sự biến đổi trong giọng điệu khiến cho người tướng lĩnh không còn đứng ở vị trí của người có quyền lực cao hơn mà dường như thấu hiểu, đặt mình ở vị trí của binh lính, nó không còn là lời răn dạy một cách khuôn mẫu, khô khan mà trái lại giống như lời bày tỏ thân tình giữa những người bạn, người thân. Nhưng không vì thế mà làm mất đi uy nghiêm của vị chủ tướng mà nó còn nâng cao hơn vị thế của con người ấy.
Không chỉ thế, nó còn tác động cả về trí lẫn tình cảm, khơi dậy trách nhiệm của mọi người đối với đất nước, với vị chủ tưởng và với cả bản thân họ cũng như gia đình của họ nữa.
Câu 6: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2
Hãy nêu một số đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ.
Bài làm:
Những đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn:
Giọng văn biến đổi linh hoạt, đa dạng: khi bi thiết nghẹ ngào, lúc sục sôi hùng hồn, khi mỉa mai chế giễu, khi nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát khiến cho bài hịch vừa cứng rắn, vừa mềm mỏng, không rơi vào tình trạng giáo điều khô cứng, cũng không phải là sự ủy mị, lãng mạn.
Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén với hệ thống luận điểm, dẫn chứng rõ ràng, đầy thuyết phục: tác giả đi từ những tấm gương trong sử sách - sự thực không ai có thể chối cãi-> giãi bày tấm lòng mình -> ân nghĩa của chủ tưởng đối với binh sĩ -> những việc làm sai trái của họ -> những việc họ nên làm -> gợi ý sách nên đọc -> kết luận
Sử dụng kiểu câu nguyên nhân - kết quả phân tích được rõ thiệt hơn, tình hình thực tế và trong tương lai của những con người ấy.
Biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại đặc biệt là tác giả sử dụng dày đặc các câu văn biền ngẫu sóng đôi - một đặc trưng của văn học trung đại, tạo nên nhịp điệu gấp gáp, hối hả, giục giã cho bài hịch.
Sử dụng những hình tượng nghệ thuật vừa gần gũi, thân thuộc, dễ hiểu nhưng lại vô cùng giàu sức gợi.
Câu 7: Trang 61 sgk ngữ văn 8 tập 2
Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng, đó là cách triển khai lập luận của bài Hịch tướng sĩ. Hãy làm sáng tỏ điều này bằng một lược đồ về kết cấu của bài hịch.
Bài làm:
Khích lệ lòng căm thù giặc giặc, mối hận của kẻ bị cướp nước
Khích lệ tinh thần ái nước, tình cảm của những người cùng cảnh ngộ.
Khích lệ tinh thần lập công và ý chí xả thân vì nước của binh lính.
Khích lệ tinh thần cá nhân trước vận mệnh của quốc gia, dân tộc.
Để cuối cùng: Khích lệ tinh thần yêu nước và quyết tâm kháng chiến thắng lợi.
Luyện tập
Bài tập 1: Trang 62 sgk ngữ ngữ 8 tập 2
Phát biểu cảm nhận về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được thể hiện qua bài hịch
Bài làm:
Lòng yêu nước là tình cảm thiêng liêng và vô giá của con người. Nhờ thứ tình cảm ấy mà nhân dân ta đã trải qua biết bao sóng gió, thăng trầm, đã từng phải đối mặt với những kẻ thù mạnh nhất thế giới nhưng nhân dân ta chưa bao giờ nao núng. Tấm lòng yêu nước của vị chủ tướng Trần Quốc Tuấn cũng được thể hiện thật cảm động qua bài Hịch tướng sĩ.
Hịch tướng sĩ được Trần Quốc Tuấn viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai (1285). Bài hịch là lời kêu gọi ý chí chiến đấu và sự thức tỉnh của tướng lĩnh và binh sĩ trước những hành động ngang ngược, bạo tàn của kẻ thù. Qua đó cũng thể hiện tình yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc cùng ý chí chiến đấu quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược của Trần Quốc Tuấn.
Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được thể hiện trước hết qua lời giãi bày tấm lòng mình với những binh sĩ:"Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa". Đó là những hành động diễn ra thường xuyên, theo mức độ tăng tiến dần: từ không ăn, đến không ngủ, đến ruột đau như cắt cuối cùng là nước mắt rơi đầm đìa. cùng với đó là một thái độ uất ức, căm tức khi chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho đất nước. Những câu văn biền ngẫu và những động từ mạnh liên tiếp được sử dụng chỉ trong một đoạn văn ngắn "chưa xả được thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù". Những câu văn biền ngẫu, dài với những vế câu ngắn tạo thành nhịp điệu hối hả, gấp gáp cũng đồng thời thể hiện sự căm thù giặc đến tận xương tủy, sự phẫn uất đến nghẹn lòng và lòng yêu nước sâu sắc của vị chủ tưởng khi chứng kiến cảnh tượng giặc ngoại xâm giày xéo lên mảnh đất cha ông, nhân dân ta chịu nhiều khổ nhục.
Đặc biệt thể giả thể hiện quyết tâm của mình bằng câu văn: "Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng". Câu nói giống như một lời thề đầy sức mạnh của người chủ tướng. Cũng vì thế mà khơi dậy được ý chí chiến đấu của binh sĩ dưới trướng của mình. Lời thề ấy cũng trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của Trần Quốc Tuấn. Tất cả những gì ông làm, ông khao khát chỉ vì một mục đích duy nhất là đất nước được tự do, độc lập, nhân dân no ấm, hạnh phúc và được hưởng một cuộc sống bình yên.
Không chỉ vậy, lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn còn được thể hiện qua việc ông nhìn rõ được những việc làm sai trái của binh lính, khi họ ngủ quên trong chiến thắng quá lâu mà lơ là mất cảnh giác và những việc họ cần làm và nên làm. Tác giả liệt kê những hành động sai trái của tướng sĩ nhằm phê phán và thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ. Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào việc đề cao tinh thần cảnh giác, chăm lo rèn luyện để chiến thắng kẻ thù xâm lược, để khi giặc tấn công bất ngờ ta cũng không ở thế bị động mà luôn chủ động, sẵn sàng chiến đấu trong bất kì hoàn cảnh nào. Tác giả tập trung vào việc đề cao tinh thần cảnh giác bởi vì bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục đích cao nhất chính là kêu gọi tinh thần yêu nước quyết chiến quyết thắng với ngoại xâm.
Như vậy, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn không chỉ là lời phủ dụ kêu gọi sự thức tỉnh tinh thần chiến đấu của binh sĩ, đề cao tinh thần cảnh giác chứ không được ngủ quên trong chiến thắng mà còn thể hiện được tấm lòng yêu nước nồng nàn của ông.
Bài tập 2: Trang 61 sgk Ngữ Văn 8 tập 2
Chứng minh bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc, do đó có sức thuyết phục cao.
Bài làm:
Bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc, do đó có sức thuyết phục cao:
Lập luận chặt chẽ: Khẳng định việc làm sai trái dẫn đến hậu quả tai hại thông qua những lời phê phán mạnh mẽ đượ đưa ra mộ cách dồn dập :"“Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trông không thề đâm thùng áo giáp giặc, mẹo cờ hạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh ; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quý ngàn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ trăm sự ích chi ; tiền của tuy nhiều khôn mua được dầu giặc, chó săn tuy khỏe không đuổi được quân thù ; chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, dau xót biết chừng nào "
Lập luận giàu hình tượng, cảm xúc, có sức thuyết phục cao:
Những hình tượng án dụ sinh động, gợi cảm :" uốn lưỡi cú diều, thân dê chó...";
Hình tượng so sánh, cụ thể : “người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ"; “có thể bêu dầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rửa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai..."
Những hình ảnh dễ hiểu : cựa gà trống, áo giáp, mẹo cờ bạc...
=> Bài hịch tướng sĩ được viết bằng cả tâm huyết của tác giả với cảm xúc tuôn trào, lời văn thống thiết, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Chính vì thế bài Hịch trở thành một sức mạnh tinh thần góp phần khích lệ tinh thần chiến sĩ, đóng góp vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc