Bài soạn "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" số 4
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả : Nguyễn Huy Tưởng (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Nguyễn Huy Tưởng trong SGK Ngữ Văn 11 Tập 1).
2. Tác phẩm
* Văn bản: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài được trích trong tác phẩm Vũ Như Tô. Vũ Như Tô là một vở kịch gồm 5 hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517 .
* Tác phẩm được viết xong vào mùa hè năm 1941, tựa đề tháng 6 năm 1942
* Tác phẩm là cách nhà văn thể hiện quan điểm của mình về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cường quyền, giữa nghệ sĩ và nhân dân. Có thể nói, đây là một kiệt tác làm nên thành công của Nguyễn Huy Tưởng.
* Tóm tắt:
Nhân vật chính của vở kịch là Vũ Như Tô, là một nhà kiến trúc tài giỏi, một nghệ sĩ có chí lớn, tính tình cương trực, trọng nghĩa khinh tài. Lê Tương Dực, một hôn quân bạo chúa, sai Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi ăn chơi với đám cung nữ.
Vũ Như Tô đã từ chối dù bị đe dọa kết tội tử hình. Song Đan Thiềm, một cung nữ tài sắc nhưng đã bị ruồng bỏ, đã khuyên Vũ nên nhận lời xây dựng Cửu Trùng Đài vì đây là cơ hội để Vũ đem tài ra phục vụ đất nước.
Vũ đã nhận lời và dồn hết sức xây Cửu Trùng Đài. Nhưng Cửu Trùng Đài đã làm cho dân chúng thêm cực khổ. Họ đã nổi dậy. Vũ Như Tô bị giết, Cửu trùng Đài bị thiêu trụi.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
Các mâu thuẫn cơ bản của kịch Vũ Như Tô được thể hiện cụ thể trong hồi V:
Mâu thuẫn thứ nhất: là mâu thuẫn giữa nhân dân lao động khốn khổ lầm than với bọn hôn quân bạo chúa và phe cánh của chúng đang sống xa hoa, trụy lạc. Mâu thuẫn này đã có từ trước, đến khi Lê Tương Dực bắt Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài thì mâu thuẫn càng trở nên căng thẳng.
Mâu thuẫn thứ hai: là mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời (Cửu Trùng Đài) và lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.
Câu 2:
Tính cách và diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong đoạn trích:
a) Vũ Như Tô
* Tính cách:
Là một người nghệ sĩ tài ba, là hiện thân của niềm khát khao và đam mê nghệ thuật, đam mê cái đẹp và sự sáng tạo
Là một người nghệ sĩ có nhân cách lớn, có hoài bão và lý tưởng nghệ thuật cao cả
Ông có những suy nghĩa lầm lạc trong hành động
* Diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô:
Ông tin rằng mình không có tội, luôn bướng bỉnh và ảo vọng
Ông đau đớn, bàng hoàng thất vọng khi Cửu Trùng Đài bị phá hủy
=> Vũ Như Tô mới chỉ đứng trên lập trường người nghệ sĩ chứ không đứng trên lập trường của nhân dân, là người tài chứ chưa phải là người hiền tài.
b) Đan Thiềm:
* Tính cách:
Là người đam mê cái tài, tôn thờ cái tài (thuyết phục Vũ Như Tô, sẵn sàng quên mình để bảo vệ Vũ Như Tô)
Ông tỉnh táo và thức thời hơn Vũ Như Tô
* Diễn biến tâm trạng:
Đan Thiềm thấy đau đớn khi nhận ra sự thất bại trong giấc mộng lớn Cửu Trùng Đài, và ông cũng nhiều lần khuyên Vũ Như Tô chạy trốn
Đau đớn khi không cứu được Vũ Như Tô, vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trong máu và nước mắt
=> Đan Thiềm xứng đáng là tri kỉ của Vũ Như Tô. Tuy rằng hiểu đời, hiểu người hơn Vũ Như Tô song vẫn lâm vào bi kịch tinh thần đau đớn.
Câu 3:
Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời và lợi ích thiết thân của nhân dân chưa được tác giả giải quyết dứt khoát. Điều đó được thể hiện ở hồi cuối cùng của vở kịch:
Quần chúng nổi dậy giết Vũ Như Tô, phá hủy Cửu Trùng Đài
Vũ Như Tô bị giết nhưng vẫn chưa nhận ra sai lầm của mình
Vũ Như Tô không đứng về phe Lê Tương Dực nhưng vẫn muốn hoàn thành công trình nghệ thuật nên đã vô tình gây nên nỗi khổ cho nhân dân.
=> Cách giải quyết mâu thuẫn của Vũ Như Tô trong đoạn trích đã phần nào giải quyết được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật chân chính phải chú ý đến con người, người nghệ sĩ khi làm nghệ thuật phải chú ý đến điều đó.
Câu 4:
Đặc sắc nghệ thuật của kịch Vũ Như Tô:
Ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao
Xây dựng nhân vật kịch đặc sắc, khắc họa rõ tính cách, miêu tả đúng tâm trạng qua ngôn ngữ và hành động của nhân vật
Lớp kịch trong hồi V được chuyển một cách linh hoạt, tự nhiên, logic, liền mạch tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn người đọc
Soạn bài Vĩnh biệt Cửu Trùng đài nâng cao
Câu hỏi 1
Trong phần Tiểu dẫn, SGK đã nêu sự việc, tình tiết thuộc Hội V như sau : Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Trịnh Duy Sản cầm đầu một phe cánh đối nghịch trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm phản, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và thiêu huỷ Cửu Trùng Đài.
Biết tin có binh biến, bạo loạn trong phủ chúa, nguy hiểm đến tính mạng Vũ Như Tô, Đan Thiềm hết lời khuyên và giục ông đi trốn. Nhưng Vũ Như Tô khăng khăng không nghe và tự tin mình "quang minh chính đại", "không làm gì nên tội" và hy vọng ở chủ tướng An Hoà Hầu. Tình hình càng lúc càng nguy kịch :
Lê Tương Dực bị giết, đại thần, hoàng hậu, cung nữ của y cũng vạ lây, Đan Thiêm bị bắt,... Kinh thành điên đảo. Khi quân khởi loạn đốt Cửu Trùng Đài thành tro, Vũ Như Tô mới tỉnh ngộ. Ông trơ trọi, đau đớn vĩnh biệt Cửu Trùng Đài rồi bình thản ra pháp trường.
Câu hỏi 2
- Mâu thuẫn thứ nhất : mâu thuẫn giữa đời sống xa hoa, truy lạc của bạn tham quan bạo chúa với đời sống cơ cực, thống khổ của nhân dân lao động (nói gọn lại là mâu thuẫn giữa lợi ích của bạo chúa với quyền sống của thường dân, tất yếu sẽ dẫn đến việc dân chúng nổi dậy diệt trừ tên bạo chúa và tất cả những kẻ bị xem là cùng phe cánh của hắn ở hồi cuối của vở kịch).Mâu thuẫn này chủ yếu thể hiện ở những hội trước của vở kịch, đã thành cao trào trong hồi cuối này. Bạo chúa Lê Tương Dực chết trong tay những người nói đây do Trịnh Duy Sản cầm đầu. Đại thần của y gian thân Nguyễn Vũ) chết trong một trò hề nhạt nhẽo. Hoàng hậu và đảm cung nữ hết thời của y bị những kẻ nổi loạn nhục mạ, bắt bớ, Dân chúng reo hò, đốt phá, nhiếc móc,... được một phen hả lòng hả dạ. Uy quyền của bạo chúa tiêu tan theo tro bụi Cửu Trùng Đài. Đây đúng là lúc "dân nổi can qua", vua quan "thất thể". Tiếc rằng cuộc nổi dậy ấy không thể mang lại điều gì tốt đẹp hơn cho dân chúng bởi giang sơn sẽ vào tay những kẻ cắm đầu cuộc phản loạn (tức phe cánh của Trịnh Duy Sản).
- Mâu thuẫn thứ hai : Lâu thuẫn giữa niềm khao khát hiện đang tất cả cho nghệ thuật của người nghệ sĩ đắm chìm trong mơ mộng với lợi ích trực tiếp và thiết thực của đời sống nhân dân.Mâu thuẫn này xuất phát từ nguyên nhân sâu xa của bi kịch : người nghệ sĩ thiên tài không có điều kiện sáng tạo, không thể thi thố tài năng. Nhưng trên thực tế anh ta lại vẫn chỉ là một thợ thủ công và danh tiểu tốt! Vì thế, khi biết rằng có thể mượn tay bạo chúa Lê Tương Dực mà thực hiện được hoài bão của mình thì anh ta sẵn sàng bất chấp tất cả, kể cả khi phải trả bằng công sức, tiền bạc của nhân dân, bằng mồ hôi, xương máu của những người thợ.
Chính niềm khao khát của người nghệ sĩ đắm chìm trong mơ mộng đã đẩy Vũ Như Tô đến vị thế đối nghịch với lợi ích trực tiếp và thiết thực của đời sống nhân dân. (Đài công xây cao thì càng tốn kém nhiều, tổn thất lớn, lại thêm các đại nạn, đại địch, thế là dù muốn dù không, Vũ Như Tô đã bất đắc dĩ thành kẻ thù của nhân dân). Cuối vở kịch, người ta không chỉ nguyền rủa tác giả Cửu Trùng Đài như nhiều người đã bán trách, nguyền rủa mà còn theo lời những kẻ cầm đầu cuộc nổi loạn đột phá tan tành Giu Trùng Đài, bắt bớ và trừng phạt tác giả của nó. Đây là lúc mâu thuẫn, xung đột kịch đã được đáy lên đến đỉnh điểm. Và nếu như trong những hói đầu, nó chỉ là mâu thuẫn tiềm ẩn, có vẻ mờ nhạt, thấp thoáng đằng sau mâu thuẫn thứ nhất, thì giờ đây, nó hầu như đã nhập hoà làm một với mâu thuẫn thứ nhất. Thậm chí người dân hầu như không mấy quan tâm đến việc trả thù bạo chúa Lê Tương Dực - việc này đã có phe cánh Trịnh Duy Sản đảm nhiệm - mà chỉ chăm chăm truy diệt nhanh thầy" Vũ Như Tô và người cung nữ "đồng bệnh" với ông là Đan Thiềm.
Câu hỏi 3
a) Tính cách, diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô, Đan Thiềm
- Tính cách nổi bật nhất của Vũ Như Tô là tính cách của người nghệ sĩ tài ba, hiện thân cho niềm khát khao và đam mê sáng tạo Cái Đẹp. Nhưng trong một hoàn cảnh cụ thể, Cái Đẹp ấy thành ra phù phiếm, nó sang trọng, siêu đẳng, thậm chí "cao cả và đẫm máu" như một bông hoa ác". Vì thế, đi tận cùng niềm đam mê, khao khát ấy, Vũ Như Tô tất phải đối mặt với bi kịch đau đớn của đời mình. Ông trở thành kẻ thù của dân chúng, thợ thuyền mà không hay biết.
Cái tài ba được nói đến chủ yếu ở các hổi, lớp trước thông qua hành động của Vũ Như Tô và nhất là lời của các nhân vật khác nói về ông. Hỏi ý không nói nhiều đến tài năng của nhân vật (chỉ duy nhất có Đan Thiểm nhắc đến), mà đạt Vũ Như Tô vào việc tìm kiếm một câu trả lời : Xây đài Cửu Trùng là đúng hay sai ? Có công hay có tội ? Nhưng Vũ Như Tô không trả lời được thoả đáng câu hỏi đó bởi ông chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của nhân dân, đứng trên lập trường Cái Đẹp mà không đứng trên lập trường Cái Thiện. Hành động của ông không hướng đến sự hoà giải mà thách thức và chấp nhận sự huỷ diệt. Vũ Như Tô đã từng tranh tinh xảo với hoả công, giờ lại bướng bỉnh tranh phải - trái với số phận và với cuộc đời. Hành động kịch hướng vào cuộc đua tranh này thể hiện qua diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô.
- Nếu Vũ Như Tô là người đam mê Cái Đẹp và khát khao sáng tạo Cái Đẹp thì tính cách của Đan Thiềm là tính cách của người đam mê Cái Tài, cụ thể là tài sáng tạo nên Cái Đẹp "Bệnh Đan Thiềm" (như chữ của Nguyễn Huy Tưởng là bệnh mê đắm người tài hoa, hay bệnh của kẻ "biệt nhôm liên tài" (như chữ của Nguyễn Tuân). Nhưng Cái Tài ở đây không phải Cái Tài nói chung mà là Cái Tài siêu việt siêu đẳng, Đan Thiềm có thể quên mình để khích lệ, bảo vệ Cái Tài ấy, nhưng nàng luôn tinh tế, sáng Máy trong mọi trường hợp vi hàng hiếu người, hiện đại hóa, thức thời.
Như vậy, diễn biến tâm trạng của hai nhân vật ở hối cuối này góp phần thể hiện tính cách bi kịch ở mỗi người cũng như những gì được xem là “đống bệnh", "tri ân" (hay đồng điệu) ở họ, đồng thời qua đó, góp phần khơi sâu hơn chủ đề của tác phẩm.
c) Về thái độ của nhà văn và cách đánh giá hai nhân vật Vũ Như Tô, Đan Thiềm
Đây là vấn đề thú vị nhưng rõ ràng không đơn giản. Bởi vì, trong khi bàn bạc, trao đổi, một mặt, ta cần phân biệt thái độ, cảm hứng và quan niệm thẩm mĩ của nhà văn qua hình tượng nhân vật ấy. Mặt khác, cũng phải thấy rằng, thái độ và Cách đánh giá của Nguyễn Huy Tưởng đối với các nhân vật chắc chắn cũng không luôn luôn đồng nhất với thái độ, cách đánh giá của các nhân vật ấy đối với nhân vật khác và đối với chính mình.
- Có thể hiểu thái độ, cách đánh giá của Nguyễn Huy Tưởng về Vũ Như Tô qua thái độ, cách đánh giá của Đan Thiềm đối với nhân vật này ("Cảm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm"). Đan Thiem cảm phục, trân trọng Vũ Như Tô nồng nhiệt đến quên mình. Nhưng Nguyễn Huy Tưởng cũng thận trọng, tỉnh táo nhân Ta Vũ Như Tô chỉ là người tài, chưa phải bậc hiền tài, cái đẹp mà Vũ Như Tô có thể tạo ra là tuyệt mĩ mà không tuyệt thiện. Chân lí chỉ thuộc về Vũ Như Tô một nửa, còn nửa kia thuộc về đời sống của dân chúng. Như vậy, nói chung Vũ Như Tô và Đan Thiềm là tính cách đa diện, phức tạp. Thái độ nhà văn, chủ yếu là trân trọng cái tài, khâm phục cái hoài bão, cảm thông với bi kịch của Vũ Như Tô, không thể là thái độ ngợi ca một chiều và có những chỗ ông không đồng tình với nhân vật của mình.
- Thái độ của người đọc và của HS khi tiếp nhận hình tượng nhân vật, chắc chắn cũng sẽ không giống nhau, thậm chí ngược nhau. Nhưng khi phát biểu phải tỏ ra có lí lẽ, có cơ sở lập luận riêng.
Câu hỏi 4
- Trong lời để tựa viết một năm sau khi viết xong vở kịch, chính Nguyễn Huy Tưởng đã công khai bày tỏ nỗi băn khoăn của mình: Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc ?", "Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải [...]- Than ôi, Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải ? Ta chẳng biết - Cắm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm". Các mâu thuẫn nói chung thường chỉ có thể giải quyết bằng hai cách : hoặc bằng cách triệt tiêu (phủ định dứt khoát hẳn một phía, để thắng lợi cho phía kia), hoặc bằng cách hoà giải (điều hoà, cải biến cả hai phía). Chẳng hạn, với mâu thuẫn thứ nhất, nhân dân nổi dậy giết bạo chúa là xong (triệt tiêu), nhưng mâu thuẫn thứ hai chỉ có thể giải quyết theo cách hoà giải. Thế mà xem ra đã không có một cuộc hoà giải nào (cơ hội duy nhất để chờ hoà giải là Vũ Như Tô phải tạm thời trốn đi, chờ thời. Nhưng Vũ Như Tô vừa mù quáng vừa cố chấp nên cơ hội này bị bỏ qua). Ở đây, nhân dân còn hổ đổ, mù quáng hơn cả Vũ Như Tô, họ những tưởng đốt xong Cửu Trùng Đài là xong xuôi mọi sự. Cửu Trùng Đài bị đốt, nhưng Vũ Như Tô vẫn không hiểu gì và không thể quan tâm đến lợi ích thiết thực của nhân dân. Ông đi ra pháp trung bình thản nhám cái chết, cũng như Đan Thiêm bị coi như một kẻ thù sẽ bị xử giáo, coi như giá trị lớn bị huỷ diệt. Hai giá trị - Cái Đẹp Và Cái Thiện đã không thể điều hoà, chung sống với nhau. Cái Đẹp bị tiêu diệt thì Cải Thiện cũng không còn đất sống.
- Mâu thuẫn và tính không dứt khoát trong cách giải quyết mâu thuẫn này được thể hiện tập trung trong khối cuối của vở kịch. Cửu Trùng Đài sụp đổ và bị đốt cháy, nhân dân trước sau vẫn không hiểu gì về việc sáng tạo của nghệ sĩ. Trước, họ nguyền rủa việc xây dựng Cửu Trùng Đài, giờ đây, họ hả hê đột phá. Họ càng không hiểu nổi Đan Thiềm, Vũ Như Tô cũng như "mộng lớn" của hai nhân vật - hiện thân cho Tài - Sốc này. Về phía khác, Đan Thiểm không cứu được Vũ Như Tô bằng lời khuyên của nàng, mặc dù trong mắt Vũ Như Tô, nàng là người tri kỉ, đống bệnh, lại là "viên ngọc quý", "trí sáng như vầng nhật nguyệt", Vũ Như Tô vẫn không thể, không bao giờ hiểu được việc làm của quần chúng và của phe cánh nổi loạn. Nếu Vũ Như Tô nghe lời, trốn đi thì có thể mâu thuẫn sẽ giải quyết theo một hướng khác chăng?
Thực ra, đây là mâu thuẫn mà có lẽ không bao giờ và không ai giải quyết cho thật dứt khoát, ổn thoả được. Bởi vì nó mang tính phổ quát và mang tầm nhìn lại 3 thực chất là biểu hiện của mâu thuẫn giữa nghệ sĩ và nhân dân, giữa Cái Đẹp (thuần tuý, siêu đẳng) và Cái Thiện trong một số hoàn cảnh, trường hợp đặc biệt. Mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết được ổn thỏa khi đời sống tinh thần của nhân dân, nhu cầu về Cái Đẹp được nâng cao lên.
Với một để tựa như thế, đủ để biết từ trong ý đồ nghệ thuật cho đến việc thể hiện ý đồ ấy, nhà văn đã tạo ra một suy tư lơ lững mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần tuý của muôn đời và lợi ích thiết thực của đời sống nhân dân. Việc giải quyết ổn thoả mâu thuẫn này phải nhờ vào lịch sử và sự giác ngộ của cả nghệ sĩ và nhân dân.
Câu hỏi 5
Bằng một ngôn ngữ kịch có tính tổng hợp rất cao, nhất là trong hội cuối của Vũ Như Tô, nhà văn đã đồng thời khắc họa tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt hành động xung đột kịch rất thành công, tạo nên một bức tranh đời sống bi kịch rất hoành tráng trong nhịp điệu bão tố của nó. GV có thể lưu ý thêm một số điểm như sau:
- Nhịp điệu được tạo ra thông qua nhịp điệu của lời nói – hành động nhất là qua khẩu khỉ, nhịp điệu, sắc thái lời cuối - hành động của những người khác trong vai trò đưa tin, nhịp điệu "ra", "vào" của các nhân vật đầu và cuối mỗi lớp - các lớp đều ngắn, có những lớp rất ngắn : chỉ vài ba lượt thoại nhỏ ; những tiếng reo, tiếng thét, tiếng động dội từ hậu trường, phản ánh cục diện, tình hình nguy cấp, điên đảo trong các lời chỉ dẫn sân khấu hàm súc của tác giả). Với một ngôn ngữ có tỉnh tổng hợp (kể, miêu tả, bộc lộ,...) và tính hành động rất cao như vậy, người ta dễ dàng hình dung cả một không gian bạo lực kinh hoàng trong một nhịp điệu chống mật : Lê Tương Dực bị Ngô Hạch giết chết, hoàng hậu nhảy vào lửa tự vẫn (qua lời kể của Lê Trung Mại), Nguyễn Vũ tự tử bằng dao (ngay trên sân khấu), Đan Thiềm suýt bị bọn nội giám thắt cổ ngay tại chỗ, Vũ Như Tô ra pháp trường nổi tiếng nhiếc móc, chửi rủa, la ó, than khóc, máu, nước mắt,... tất cả hàng thực như trên một cái chảo dầu sôi khổng lồ.
Mỗi lần Đan Thiềm cũng như Vũ Như Tô xuất hiện (với Công trình Cửu Trùng Đài đang xây) trên sân khấu đều đánh dấu một biến động lớn của hành động kịch. (Cảnh thứ nhất : Hối L, lớp 7; cả thứ hai : Hồi III, lớp 9; cảnh thứ ba : Hồi V, lớp 7, 8, 9, Hỏi: đài cao sắp mọc, tinh tri kỉ nảy sinh ; Hồi III: Đài Cửu Trùng đang mọc lên dang dở nhưng đẹp và kì vĩ lắm, tình tri kỉ gắn bó tha thiết ; Hồi V: Cửu Trùng Đài sụp đó, người tri kỉ, tinh tri kỉ chìm trong cái chết bi thương).
- Là một vở kịch lịch sử, Vũ Như Tô Tất nhiên được viết dựa trên sự liệu : sự kiện, nhân vật lịch sử, bối cảnh lịch sử. Điều quan trọng là tác giả đã khai thác, vận dụng các sử liệu ấy như thế nào cho phù hợp với yêu cầu của bi kịch. Và lịch sử có logic, quy luật riêng của nó. Nhiều khi thật tàn khốc, lạnh lùng. Cái lõi lịch sử đưa nhà văn khai thác ở đây là câu chuyện Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực (như sách Đại Việt sử kí và Việt sử thông giám Cường lực ghi lại). Đài xây dang dở, người thợ tài hoa Vũ Như Tô đã phải chịu cái chết oan khốc. Ở đây, để góp phần làm nên cái khung cảnh và không khí bỉ trắng của lịch sử, tác giả đã đạt hành động kịch vào trong một cung cấm" ; nhiều nhân vật kịch là những nhân vật lịch sử ; nhiều tên đất, tên người gắn với triều Lê. Đúng như lời chỉ dẫn sân khấu của tác giả : sự việc trong vở kịch xảy ra ở Thăng Long trong khoảng năm 1916 - 1517, dưới triều Lê Tương Dực.
Câu hỏi 6
Để thực hiện yêu cầu của câu hỏi này, HS trước hết cần nhận biết đúng các lời chú thích nghệ thuật, các lời thoại đầy kịch tính, sau đó, phân tích được giá trị tạo hình và biểu tượng của chúng.
Ví dụ : Đọc kĩ và phân tích một đoạn thoại trong lớp cuối cùng của vở kịch.
Trong lớp này, trực tiếp tham gia vào hành động trên sân khấu có các nhân vật : Vũ Như Tô, Ngô Hạch, lũ quân, quân sĩ. Kịch tính ở đây chủ yếu được biểu hiện thông qua các lời thoại (gồm cả đối thoại và độc thoại) giữa hai thế lực đối nghịch ; một bên là quân phản loạn, nhân danh sức mạnh quyền lợi của dân chúng mà đốt phá, truy diệt phe đảng của vương triều cũ ; một bên là người thợ cả lừng danh, nhân danh hoài bão nghệ thuật cao đẹp mà xây đài cho bạo chúa.
Bên cạnh các lời thoại, các chỉ dẫn sân khấu được sử dụng để tạo dựng tình huống, bối cảnh cho diễn xuất. Chẳng hạn, lời LŨ QUÂN -... Cửu Trùng Đài sắp là một đống tro tàn !"; chú thích nghệ thuật:"(Chợt có ánh lửa sáng rực, cả tàn than, bụi khói bay vào)"; và "VŨ NHƯ TÔ (nhìn ra, rú lên) - Đốt thực rồi ! Đốt thực rồi ! Ôi đảng ác ! Ôi muôn phần căm giận ! Trời ơi ! Phủ cho ta cái tài làm gì ? Ôi mộng lớn ! Ôi Đan Thiềm ! Ôi Cửu Trùng Đài ! (có tiếng hô vui vẻ : "Cửu Trùng Đài đã cháy !"); QUÂN SĨ - Thực đáng ăn mừng. VŨ NHƯ TÔ (chua chát) - Thôi thế là hết. Dẫn ta đến pháp trường !".