Bài tham khảo số 1
Nếu kết thúc truyện "Tắt đèn", chị Dậu chạy ra khỏi nhà tên quan huyện trong một đêm đen "như cái tiền đồ của chị"; nếu kết thúc truyện "Chí Phèo" là cái chết trong đau đớn của Chí và hình ảnh thị Nở nhìn nhanh xuống bụng nghĩ đến cái lò gạch cũ bỏ không như dự báo một Chí Phèo con ra đời thì Kim Lân lại tìm một hướng đi khác cho câu chuyện nhặt vợ cười ra nước mắt của anh cu Tràng. Kim Lân đã không để cuộc đời của các nhân vật chìm đắm trong bóng tối của đói nghèo và cái chết, hình ảnh Việt Minh cùng lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện cuối tác phẩm "Vợ nhặt" đã tạo nên cho truyện một kết thúc "mở, tự nhiên và sáng".
Bắt đầu viết văn và có tác phẩm đăng báo từ những năm 1941-1944, Kim Lân được coi là nhà văn thành công về đề tài nông thôn với những con người bé nhỏ và cam phận, những vẻ đẹp chân quê bình dị và những phong tục tập quán độc đáo của làng quê Bắc bộ. Từng trang viết của nhà văn sinh ra từ đồng ruộng này đều như mang trong đó mùi của rơm rạ, khói bếp, lúa đồng, mùi của cuộc sống nông thôn cơ cực, nhọc nhằn.
"Vợ nhặt" được viết lên mang cái tình của Kim Lân dành cho những người nông dân nghèo khổ, lam lũ mà chất phác, yêu đời. Nhân vật chính của truyện là anh cu Tràng - anh chàng kéo xe thuê nghèo khổ, xấu xí, lại là dân ngụ cư. Giữa những ngày đói khủng khiếp của năm Ất Dậu, hắn bỗng dưng "nhặt" được vợ chỉ qua hai lần gặp gỡ và mấy bát bánh đúc. Hắn đưa vợ về nhà trong sự ái ngại những người dân xóm ngụ cư, trong trạng thái ngạc nhiên, ngỡ ngàng của bà mẹ hắn. Với lòng nhân hậu, yêu thương, bà cụ đã đón nhận người vợ nhặt. Chi tiết kết thúc truyện là bữa cơm mừng dâu mới với âm thanh dồn dập của tiếng trống thúc thuế, với câu chuyện người vợ Tràng kể về sự nổi dậy của người dân vùng cách mạng và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong óc Tràng khi nghe câu chuyện ấy.
Trước hết, đoạn kết truyện tiếp tục hoàn thiện bức tranh về nạn đói thảm khốc năm Ất Dậu. Nếu ở phần đầu, tác giả tập trung miêu tả hiện thực qua hình ảnh những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma, những chiếc thây nằm còng queo bên đường.. thì phần cuối, giữa không khí có phần im lặng, "tủi hờn" của bữa ăn mừng dâu mới, một âm thanh dồn dập, vội vã bỗng dội lên: Âm thanh của tiếng trống thúc thuế - âm thanh gây ám ảnh kinh hoàng đối với những người dân đói khổ. Bởi sau chuỗi âm thanh ấy là biết bao thảm cảnh đau thương. Kim Lân không miêu tả trực tiếp, nhưng ta có thể hình dung thảm cảnh ấy qua hình ảnh gia đình chị Dậu trong đoạn trích "Tức nước vỡ bờ" của tiểu thuyết "Tắt đèn".
Phụ họa cùng âm thanh tiếng trống là hình ảnh đàn quạ "lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen." Loài vật "biểu tượng" cho sự chết chóc này đâu phải xuất hiện một lần. Âm thanh tiếng quạ "gào lên từng hồi thê thiết" mà Kim Lân miêu tả trong đoạn trước đã được chuyển hóa thành "những đám mây đen" như phủ bóng đen của cái chết lên bầu trời, lên thân phận của những con người đói khổ dưới mặt đất.
Trong khi người con dâu ngơ ngác chưa biết tiếng trống gì, thì lòng người mẹ nghèo đã chất đầy bi thương. Tiếng trống quá quen thuộc mỗi ngày ấy lại có sức "sát thương" ghê gớm:
"Trống thúc thuế đất. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ.. Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc."
Câu nói của cụ Tứ giúp người đọc hiểu rõ hơn nguyên nhân của tình cảnh thê thảm khiến trong vòng ba tháng hơn hai triệu đồng bào ta chết đói: Thực dân Pháp thì thi hành những "luật pháp dã man", vơ vét của cải còn phát xít Nhật thì bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay phục vụ cho mục đích chiến tranh. Lời than thở của cụ Tứ cũng chính là lời kết tội đanh thép của nhà văn hướng về phía bọn xâm lược bạo tàn.
Nhận thức về hiện thực khiến cụ Tứ vừa mới đây còn vui vẻ nói nói, cười cười, bàn tính toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau, giờ đây, tâm trí cụ lại như rơi vào điểm đáy. Cụ lo lắng: "Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ". Tiên cảm về cái đói, cái chết giống như bóng đen trở đi trở lại ám ảnh cụ. Hiện thực quá khốc liệt khiến cụ không thể vui trọn vẹn trong ngày đại hỷ của con. Dòng nước mắt hiếm hoi nơi kẽ mắt kèm nhèm lần nữa nhỏ xuống. "Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc."
Nếu như theo "mô típ" của dòng truyện hiện thực trước Cách mạng, Kim Lân có thể đã kết thúc truyện ở những dòng nước mắt bi thương của người mẹ nghèo. Nếu vậy, cái kết này sẽ giống với cái kết của Chí Phèo, Một bữa no, Bước đường cùng hay Tắt đèn.. Nhưng không, Kim Lân đột ngột chuyển mạch truyện sang một hướng mới, tươi sáng, lạc quan hơn.
Câu chuyện của chị con dâu kể về mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa, mà còn phá cả kho thóc Nhật chia cho người đói là bước ngoặt đầu tiên của kết truyện. Chuyện không đóng thuế, phá kho thóc.. dù ở tận mạn ngược xa xôi, nhưng cũng đủ để mang đến một luồng sinh khí mới cho cả gia đình. Câu chuyện ấy như giống như tia sáng le lói nhen nhóm lên giữa khung cảnh "tối sầm vì đói khát".
Điều đặc biệt là câu chuyện của vợ Tràng đã khiến tâm trí Tràng xuất hiện những hình ảnh thật đẹp. Lần đầu tiên trong óc Tràng, không phải là những suy nghĩ ngờ nghệch, vô tâm, vô tư mà là hình ảnh đám người đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm. Những hình ảnh ấy chính là bước ngoặt thứ hai cho kết truyện, quyết định cái kết "mở, tự nhiên và sáng".
Những người đói kia, họ cũng như Tràng, mẹ Tràng, vợ Tràng – là nạn nhân của thảm cảnh năm đói Ất Dậu. Nhưng họ đã biết đi theo tiếng gọi của Đảng, của Cách mạng, đứng lên đấu tranh, phá kho thóc Nhật, giành lại sự sống về tay mình. Tín hiệu của một cuộc Cách mạng đã khá rõ ràng. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại nhắc đến những địa danh Thái Nguyên, Bắc Giang. Đó chẳng phải là căn cứ địa của Cách mạng những năm kháng chiến chống Pháp đó sao?
Ý đồ gửi gắm trong những dòng cuối cùng của câu chuyện trước hết tạo nên một kết thúc "mở", gợi nhiều suy ngẫm trong lòng người đọc. Truyện không "đóng khung" số phận của nhân vật theo hướng nào mà để "lửng", để người đọc mỗi người tự hình dung về số phận nhân vật theo suy nghĩ của mình. Nhà văn đã để bạn đọc đồng sáng tạo cùng tác giả. Và có lẽ, trong suy ngẫm của nhiều độc giả, một ngày kia, Tràng, mẹ Tràng, vợ Tràng sẽ được giác ngộ Cách mạng, hòa cùng đám người đói kia đấu tranh để giải phóng cho chính mình. Cuộc sống của anh và gia đình cùng những người nông dân Việt Nam sẽ sang một trang mới, ấm no hơn, hạnh phúc hơn khi cách mạng giành thắng lợi.
Thứ hai, kết thúc truyện của Kim Lân là kết thúc "tự nhiên", có cơ sở từ thực tiễn đời sống. Tại thời điểm 1945, công cuộc chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa đang ở giai đoạn nước rút. Nhiều nơi, Việt Minh đã nổi dậy phá kho thóc Nhật chia cho người nghèo. Nhân dân được Đảng giác ngộ cũng đã nhận ra bộ mặt của kẻ thù xâm lược. Họ sẽ ý thức được sứ mệnh của mình và tìm đến Cách mạng như một con đường tất yếu. Nhưng sự khéo léo của Kim Lân là không kết một cách khiên cưỡng nếu để Tràng tham gia Cách mạng ngay, mà chỉ dừng lại ở nhận thức ban đầu của Tràng về Việt Minh. Quá trình nhận thức về Việt Minh, về Cách mạng được diễn tiến từ từ. Cách kết truyện như thế là phù hợp.
Thứ ba, kết thúc truyện của Kim Lân còn là một kết thúc "sáng", đầy tính nhân văn. Trong văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám, có nhiều cái kết đã để lại ám ảnh bi thương trong lòng người đọc. Như Chí Phèo phải chết trong đau đớn sau khi thức tỉnh lương tri. Như Chị Dậu cũng phải chạy thoát thân trong cái đêm đen như mực "giống như cái tiền đồ của chị" cho dù cũng có lúc vùng lên đấu tranh.. Số phận của họ đều bế tắc trong cái vòng luẩn quẩn không lối thoát. Không phải vì Nam Cao, Ngô Tất Tố không cảm thương cho nhân vật của mình, nhưng các nhà văn lúc ấy chưa nhận ra ánh sáng của Cách mạng, chưa nhìn thấy khả năng đổi đời của người nông dân. Còn Kim Lân, thời điểm ông viết truyện này là sau hòa bình lập lại. Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám đã khiến các nhà văn như ông, (như Tô Hoài) nhận thức rõ ràng vai trò của Cách mạng và khả năng Cách mạng của người nông dân. Nên Kim Lân đã hướng họ đến ánh sáng của Đảng, của Cách mạng, mở ra cho họ một tương lai tươi sáng hơn, dù đó chỉ là "ánh sáng le lói cuối đường hầm".