Bài tham khảo số 2
Kì thực trong lịch sử văn học dân tộc, có không nhiều tác phẩm xuất sắc, đạt đến trình độ mẫu mực, đỉnh cao cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Muốn có được điều đó phải dựa trên rất nhiều yếu tố, trong đó chắc chắn phải dựa vào tài năng trác việt của tác giả. Nguyễn Trãi là nhà văn như vậy và Bình Ngô đại cáo là tác phẩm kiệt xuất của văn học dân tộc. Tài năng, tâm sức và nhiều khát vọng được ông dồn tụ vào áng văn chính luận bất hủ này. Và một trong những điểm sáng lớn nhất của bài cáo chính là ở nghệ thuật lập luận tài tình của nhà văn.
Cáo vốn là một thể văn chính luận trung đại, thường dùng cho mục đích hành chính quan phương của vua chúa. Ít ai nghĩ rằng thể loại vốn khô khan, khó có “đất diễn” này có thể trở thành một tác phẩm văn chương đúng nghĩa. Nhưng Bình Ngô đại cáo lại khác, có nhiều yếu tố để Nguyễn Trãi đã biến nó trở thành một tác phẩm giàu chất văn chương, mà trước hết là ở nghệ thuật lập luận. Một tác phẩm văn chính luận (dù ở hình thức thể loại nào) đạt đến trình độ nghệ thuật đỉnh cao phải xác định được đối tượng, mục đích rõ ràng, có kết cấu chặt chẽ, cách lập luận sắc bén, giọng điệu hùng hồn, đanh thép, ngôn ngữ giàu tính luận chiến, có độ khái quát cao. Nếu xét ở tất cả các phương diện này, Bình Ngô đại cáo là một áng văn chính luận bất hủ, kiệt xuất.
Nói tới đối tượng và mục đích sáng tác văn chương không phải là nói đến yếu tố nghệ thuật mà là nội dung. Nhưng đối với văn chính luận hai điều này lại vô cùng quan trọng chi phối đến kết cấu và cách thức lập luận của tác phẩm. Nếu xét ở bề nổi, đối tượng của Đại cáo bình Ngô chính là nhân dân bá tánh, mà vua Lê Lợi và Nguyễn Trãi muốn thông báo rộng rãi về nền hòa bình độc lập sau hơn hai mươi năm chịu ách đô hộ và kháng chiến chống giặc Minh. Nhưng tính chiến đấu của văn chính luận luôn ẩn chứa ngay từ đối tượng và mục đích mà văn bản đó được sáng tác. Việc tuyên bố độc lập, hòa bình với nhân dân đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi là điều bình thường, nhưng nó cũng chính là đòn cuối cùng trên mặt trận ngoại giao để kẻ thù không còn có cớ nào quay trở lại xâm lược nữa. Vì vậy, bản đại cáo đã tạo nên những cơ sở lí luận và thực tiễn đầy xác đáng, chân thực như gọng kìm cuối cùng để khóa chặt mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù.
Kết cấu của bản đại cáo rất chặt chẽ, bao gồm bốn phần rõ ràng và được tạo từ hai cơ sở rất quan trọng để đi đến việc có thể tuyên bố hòa bình. Mở đầu Nguyễn Trãi đã tạo một căn cứ pháp lí không gì có thể chối cãi được, đó chính là tư tưởng nhân nghĩa và những yếu tố để xác lập chân lý chủ quyền dân tộc. Trong đó tư tưởng nhân nghĩa đóng vai trò cốt lõi, xuyên suốt của tác phẩm.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Chưa kể cách Nguyễn Trãi đề xuất đầy mới mẻ, nhân văn trong quan điểm nhân nghĩa này, mà nó còn giữ vai trò chủ đạo để thực thi, phán xét mọi hành động của kẻ thù và quân ta. Nhân nghĩa là yên dân, muốn cho dân được yên thì phải lo trừ bạo ngược, mà trước mắt là diệt trừ họa xâm lăng. Vì vậy bao đời nay, trên tinh thần nhân nghĩa dân ta đã và luôn là một quốc gia độc lập, bất khả xâm phạm tới chủ quyền. Bất cứ kẻ nào đem quân đi xâm lược nước ta là trái với nhân nghĩa, chà đạp lên quyền độc lập tự do của dân tộc mình đều bị trừng trị thích đáng.
Nền móng vững trãi đó đã giúp ông soi chiếu vào lịch sử hơn hai mươi năm giặc Minh đô hộ và xâm lược nước ta. Những dẫn chứng thực tiễn đẫm máu và nước mắt trong những ngày tháng đó được bài cáo đưa ra một cách chân thực. Đó là những nhân chứng, vật chứng đanh thép mà nhà văn – vị “luật sư” thiên tài đệ ra trước “tòa án nhân nghĩa”. Hơn nữa, lãnh tụ Lê Lợi cùng tướng sĩ của mình đã vượt qua biết bao nhiêu khó khăn, đồng sức chung lòng để làm nên thắng lợi. Chiến thắng ấy là chiến thắng của tinh thần đại nghĩa – chí nhân. Kết cấu của bài cáo vì thế mà vô cùng chặt chẽ.
Bản Đại cáo bình Ngô còn được coi là đỉnh cao của nghệ thuật văn chính luận phải kể đến cách lập luận đầy sắc bén của nhà văn Nguyễn Trãi. Ngay ở phần mở đầu khi đưa ra chân lý độc lập, tác giả không đơn thuần khẳng định một cách chung chung mà từ các lí lẽ đến dẫn chứng đều khiến mọi người tỏ ra tâm phục khẩu phục. Ông liệt kê, so sánh rất chính xác qua các yếu tố xác lập chủ quyền độc lập như nền văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, hào kiệt giữa hai quốc gia Đại Việt và Đại Hán. Vừa là thể hiện niềm tự hào về một quốc gia đã độc lập từ lâu đời, vừa là cách khẳng định vị thế ngang hàng với một đất nước lớn như Trung Quốc. Đó cũng chính là lời răn đe đối với mục đích, âm mưu xâm lược nước ta của kẻ thù. Chưa bao giờ trong lịch sử, tính tới thời điểm đó, vấn đề độc lập chủ quyền của nước ta lại được khẳng định một cách chắc chắn và vững trãi như vậy. Không những thế để chặt chẽ hơn ông còn đưa ra những dẫn chứng mà năm xưa quân xâm lược phương bắc đã làm và phải chịu thất bại như thế nào. Bởi vậy, mở đầu bài cáo một cơ sở pháp lí không còn gì thuyết phục hơn được đặt ra.
Trong khi đó, đến cơ sở thực tiễn ông cũng luận tội kẻ thù bằng những dẫn chứng đanh thép. Cách luận tội vừa xác thực vừa chứa đựng nhiều cảm xúc đã phơi bày tất cả những gì đau thương nhất mà nhân dân phải trải qua:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Cách sử dụng hình ảnh tuy có tính chất ước lệ, khái quát nhưng vẫn lột tả được hết thảy tội ác man rợ của quân cuồng Minh. Điều đó càng chứng thực cho những gì thuộc về nhân nghĩa bọn chúng đều vi phạm hết. Bởi vậy lập luận tăng phần thuyết phục, cuộc phản công lại của quân khởi nghĩa Lam Sơn vì thế mà ở trong thế chính nghĩa. Sự kết hợp nhịp nhàng giữa lí luận và thực tiễn đã tạo sức nặng rất lớn trong cách lập luận của Đại cáo bình Ngô.
Song bên cạnh đó bút pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng cũng là một trong những yếu tố làm nên giá trị đỉnh cao của tác phẩm này. Ở bài cáo có sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa các yếu tố hiện thực và trữ tình, tả thực và ước lệ tượng trưng. Trong đó, bút pháp tương phản, đối lập được vận dụng một cách tài tình và linh hoạt nhất. Ngay ở đoạn văn luận tội kẻ thù, Nguyễn Trãi đã phơi bày một bức tranh đen tối của dân tộc dưới ách đô hộ của bè lũ cướp nước. Nhân dân ta phải chịu cảnh đàn áp dã man, còn kẻ thù hiện lên chân dung của những kẻ khát máu, man rợ. Hay khi tái hiện lại quá trình phản công đầy gian khổ và tất thắng của quân dân ta cũng đầy sự trái ngược. Sự lớn mạnh và liên tiếp thắng lợi của tướng sĩ Lam Sơn lại hoàn toàn đối lập với chân dung biếm họa của bọn quân tướng giặc Minh khi thua cuộc. Có thể nhận thấy, tác giả không sử dụng một bút pháp nào độc tôn, mà linh hoạt, mới mẻ trong từng đoạn, từng phần. Bởi vậy đọc bài cáo người đọc mới không thấy sự nhàm chán, khô khan như một văn bản hành chính thông thường. Hơn thế bút pháp trong bài cáo còn được thăng hoa nhờ có sự phối hợp nhịp nhàng giữa yếu tố tâm lý và chất anh hùng ca. Bài cáo vì thế như một lời tự sự từ tận trái tim nhưng là hơi thở của cả một thời đại hào hùng.
Chưa dừng lại ở đó, việc sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ đến âm hưởng, giọng điệu cũng tạo nên giá trị nghệ thuật lớn lao cho bài cáo này. Chắc chắn ai đọc Đại cáo bình Ngô không thể quên được những hình ảnh vừa khái quát vừa chân thực như nướng dân đen, vùi con đỏ, đứa há miệng, thằng nhe răng, hay khí thế hừng hực của đội quân chính nghĩa:
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Ngôn ngữ giàu tính sáng tạo giữa việc sử dụng những điển cố văn chương với cách vận dụng ngôn ngữ cá nhân rất gần gũi, thân thuộc, khiến người đọc khó mà phân biệt được đâu là những ngôn từ sách vở, đâu là ngôn ngữ của chính nhà văn.
Nhưng chất chính luận rất riêng của tác phẩm này còn phải kể đến âm hưởng, giọng điệu. Là một văn kiện lịch sử tuyên bố sự nghiệp quan trọng của nước nhà chắc chắn giọng điệu hào hùng, âm hưởng mạnh mẽ, khí thế là điều tất yếu. Nhưng Đại cáo bình Ngô còn mang đến nhiều cảm xúc hơn thế. Có sự đanh thép, cứng rắn trong việc luận bàn việc nhân nghĩa; có sự đau đớn, xót xa, uất nghẹn khi luận tội kẻ thù; có sự suy tư, cảm thông trong lời kể về chủ tướng Lê Lợi và những ngày đầu còn khốn khó của cuộc khởi nghĩa; nhưng đến khi hồi tưởng lại cuộc phản công oanh liệt của ta lại rất hùng hồn, quyết liệt. Và hồi kết thúc bài cáo, giọng điệu thư thái, nhẹ nhàng mà hảo sảng, sướng vui vang lên để tuyên bố độc lập. Cả bài cáo là sự hòa quyện của muôn vàn giọng điệu, chỉ có thể được tạo ra bởi một trí tuệ tài năng, một trái tim say mê, một thực tế đã từng trải. Vì thế nghệ thuật lập luận của bài cáo đạt đến mức độ đỉnh cao là điều dễ hiểu.
Nguyễn Trãi, không ai có thể phủ nhận nhân cách, đức độ và tài năng của ông. Cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước là điều mà ai cũng thấy được ở bậc vĩ nhân này. Thế nhưng trong sáng tác văn chương Nguyễn Trãi cũng thể hiện sự đa tài hiếm có. Ở thể loại nào ông cũng thành công. Và một trong số những đặc điểm dễ nhận thấy là ông luôn có những tìm tòi, sáng tạo, phá vỡ tính quy phạm vốn có trong văn chương trung đại. Chưa kể đến những yếu tố về thời đại, về hoàn cảnh lịch sử chống quân Minh, về những bức thư đầy tính luận chiến trong Quân trung từ mệnh tập và ngay cả sự bạo ngược của giặc Minh, Nguyễn Trãi đã đem đến một bài cáo rất đặc biệt trong cách lập luận mà trước nay chưa từng có.Vì thế ông xứng đáng là nhà văn chính luận kiệt xuất, Bình Ngô đại cáo trở thành áng văn chính luận mẫu mực, có giá trị cổ điển đưa Nguyễn Trãi trở thành cây bút bậc thầy ở thể loại này.