Bài tham khảo số 4
“Cây tre Việt Nam” của nhà văn Thép Mới là lời bình cho bộ phim cùng tên của các nhà điện ảnh Ba Lan.
Khi đọc câu văn đầu tiên, chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng ấn tượng: “Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam”. Thép Mới đã khái quát cho người đọc hiểu rõ về mối quan hệ giữa cây tre và người dân Việt Nam.
Tiếp đến, tác giả nói đến cây tre trong đời sống vật chất và tinh thần, trong sản xuất, trong tâm hồn, trong chiến đấu của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam qua trường kỳ lịch sử. Đất nước Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới, chan hoà ánh nắng. Cây cỏ tốt tươi xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Tác giả so sánh để ca ngợi vị thế cây tre trong lòng người: “Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa”. Tre có mặt khắp mọi miền đất nước: “Đồng Nai, Việt Bắc, Điện Biên Phủ, là luỹ tre thân mật làng tôi”. Tre được nhân hoá, trở nên gần gũi yêu thương: “đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn”. Cây tre dường như đã trở thành một người bạn quá đỗi thân quen với con người.
Không chỉ vậy, họ hàng nhà tre còn có: tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau. Nhưng lại có một điểm tương đồng, đó là cùng một mầm non măng mọc thẳng. Đây là một phát hiện vô cùng tinh tế, ý vị. Tre có một sức sống vô cùng mạnh mẽ vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt. Nhà thơ Nguyễn Duy cũng có những vần thơ hay viết về cây tre:
“Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu”
(Tre Việt Nam)
Hình ảnh nhân hoá trở đã giúp người đọc hiểu được phẩm chất của cây tre: “Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người”. Tre cũng mang trong mình khí chất của con người Việt Nam.
Tiếp đến, sự gắn bó của tre với con người đã được Thép Mới khắc họa rõ nét. Nhà văn đã trích dẫn câu thơ của Tố Hữu: “Bóng tre trùm mát rượi” để từ đó nói lên vẻ đẹp của luỹ tre làng quê, một vẻ đẹp êm đềm của xứ sở. Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Tre là vẻ đẹp của cảnh sắc làng quê, là vẻ đẹp của nền văn hoá lâu đời của dân tộc, là nếp sống lao động cần cù và cuộc sống yên vui êm đềm của nhân dân ta qua hàng nghìn năm lịch sử. Các từ ngữ, hình ảnh: bóng tre, dưới bóng tre của ngàn xưa, dưới bóng tre xanh... được điệp lại, lấy lại đã tạo nên giọng văn nhẹ nhàng mênh mang biểu cảm: “Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình, mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu dời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp”. Màu xanh của tre cũng là màu tâm hồn, màu thời gian, màu sắc của nền văn hoá, màu chung thuỷ.
Tre còn được nhân hoá: “Tre ăn ở với người, tre ... giúp người..., tre vẫn phải còn vất vả mãi với người, tre là người nhà…”. Từ một vật thể, cây tre trở nên có tâm hồn, có linh hồn gắn bó với cuộc đời vất vả, ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta trong dòng chảy thời gian. Tre gắn bó với tâm tình của nhân dân. Lạt giang mềm để gói bánh chưng; sự hiện hữu của nó trong sính lễ như “khít chặt” những mối tình quê thắm thiết; thuỷ chung.
“Tre là cánh tay của người nông dân”. Điệp ngữ “bóng tre”, “dưới bóng tre”, “tre” được lặp đi lặp lại càng làm rõ sự khăng khít, gắn bó bên nhau giữa trẻ và người. Tre gắn bó với con người trong cuộc đời như một điều gì khó có thể chia cắt được. Từ tuổi ấu thơ, tre là nguồn vui trong mỗi trò chơi dân gian chơi chuyền, đánh thẻ. Lúc trưởng thành, tre bên cạnh con người vào ruộng, ra nương, khi về già, tre lại là bạn tâm giao trong chiếc điếu cày khoan khoái. Tre chung thủy với người như dân làng thủy chung, gắn bó với quê hương mình vậy.
Không chỉ vậy, tre còn gắn bó trong chiến đấu. Tre cũng mang trong mình những phẩm chất của một người hùng bất khuất, kiên cường: “Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất”. Tre vào chiến trận cũng gan dạ, kiên cường oanh liệt, lấy thân mình giữ làng nước quê hương: “Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!”. Tre - người hùng chiến trận, lời tác giả viết đều chân thực, dựa trên lịch sử và thực tế vì vậy mỗi từ, mỗi chữ đều lay động tâm hồn người đọc.
Cuối cùng, tác giả đã gợi cho chúng ta những suy tư về vai trò của cây tre trong cuộc sống Hiện đại. Khi mà những xi măng, cốt sắt ngày càng nhiều thì tre vẫn giữ một vị trí đặc biệt trong cuộc sống của con người: “Ngày mai, trên đất nước này, sắt, thép có thể nhiều hơn tre, nứa. Nhưng, trên đường trường ta dấn bước, tre xanh vẫn là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình. Tre sẽ càng tươi những cổng chào thắng lợi. Những chiếc đu tre vẫn dướn lên bay bổng. Tiếng sáo diều tre cao vút mãi”. Những hình ảnh mang tính biểu tượng, gợi cho chúng ta nhiều suy tư sâu sắc.
Tóm lại, Cây tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới là một tác phẩm giàu ý nghĩa. Qua đây, người đọc đã có được những cảm nhận sâu sắc về vai trò của tre đối với dân tộc Việt Nam.