Bài tham khảo số 5

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm
    “Lời tuyệt vọng là lời ca hay nhất
    Tiếng nấc kia chứa tuyệt bút muôn đời”
    (Muytxe)
  • Những cảnh đẹp nhất lại mang nỗi sầu buồn khôn xiết, những câu thơ buồn nhất lại chạm đến tâm hồn con người một cách thấm thía nhất. Nói về nhà thơ của nỗi buồn, có lẽ không ai vượt qua được Huy Cận. Nói về bài thơ buồn nhất của Thơ mới, của thơ ca không thể không có “Tràng giang”.

II.Thân bài

1. Khái quát

    • Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác
    • Nội dung, nhan đề

    Được chấp bút vào một buổi chiều mùa thu năm 1939 khi Huy Cận vừa tròn 20 tuổi, “Tràng Giang” tiêu biểu nhất cho hồn thơ Huy Cận. Lê Duy từng nhận xét:

    “Là tràng giang- khổ nào cũng dập dềnh sóng nước
    Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.”
    “Tràng giang” trước hết là bức tranh về “trời rộng sông dài”, là cái mênh mông của sông nước muôn đời của quê hương đất nước Việt. Ngay tên nhan đề bài thơ: hai chữ “Tràng giang” mang sắc thái cổ kính từ xưa vọng về. “Tràng giang” chứ không phải “trường giang” bởi vần “ang” mới gợi sự mênh mang vô tận, lan ra bờ bãi ngút ngàn. Nhưng sẽ cảnh có cảnh đó nếu tình không trĩu nặng và ưu sầu đến thế. Trong cảnh là tình, tình hòa vào cảnh để làm nên những phong cảnh tuyệt bút và tình cảm tuyệt mĩ.


    2. Phân tích

    a) Khổ 1: Nỗi buồn thân phận trước dòng nước mênh mang

    Câu 1: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”

    • Hai từ “điệp điệp”: láy lại khiến cho nỗi buồn con người thấm vào sóng nước. Ta có cảm giác như không chỉ thấy sóng trên tràng giang mà còn thấy sóng lòng trào dâng lên không dứt, mênh mang, hòa cùng sóng nước vỗ mãi tới tận chân trời.

    Câu 2: “Con thuyền xuôi mái nước song song”:

    • Sóng nước dập dềnh, trải dài xa mãi, thinh lặng khó nói lên lời. Đó phải chăng là nỗi buồn cho thân phận nổi trôi vô định.

    Câu 3: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

    • Hình ảnh “thuyền về nước lại” dẫu là sự vận động trái chiều của cảnh vật hay là thuyền về nước thêm sầu vẫn là “sầu trăm ngả”, sự hoang mang.

    Câu 4: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”

    • Cành củi của cuộc sống đời thường được tác giả “ứng hiện” trong một “Tràng giang” đậm chất Đường thi. “Củi” chứ không phải hoa, bèo, gỗ, … “Củi” đi với “một” mà thêm lẻ bóng, cô đơn. “Củi” đi với “cành khô” mà càng khô khốc, tang thương. “Củi” trong “lạc mấy dòng” mà thêm bơ vơ vô định. “Củi một cành khô lạc mấy dòng” thực sự là một cơn sóng cô đơn, hiu quạnh, vô định trào trực xô lên trong lòng người. Từ cây cối xanh tươi trên ngàn đến cành củi khô gầy guộc là mấy lần thân phận cỏ cây khô héo, vùi dập, đổi thay để có những câu thơ “kêu giòn và lay động” như thế.

    => Tràng giang giờ đây khi còn là cảnh dòng sông mùa nước lũ nữa mà thực sự là dòng đời ngầu đục. Con người đầy lạc lõng, ưu tư, băn khoăn trước cuộc đời - đó cũng là tâm trạng của lớp trí thức bấy giờ.


    b) Khổ 2: Nỗi buồn thân phận nhân lên thành nỗi cô đơn rợn ngợp khi đứng trước trời rộng sông dài.

    • 2 câu đầu: “Lơ thơ cồn nhỏ… chợ chiều”
      Nỗi buồn lan tỏa, mơ hồ hòa trong cái quạnh quẽ, hiu hắt của “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu”. Từ nỗi niềm bơ vơ buồn bã đó, nhà thơ đi tìm hơi ấm của cuộc sống: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. “Đâu đó” hay “đâu có”? Nhưng dù sao cũng đều rất xa xôi, mơ hồ. Tiếng chợ chiều góp vui mà lại càng tăng cảm giác tẻ nhạt, quạnh vắng, đìu hiu hơn. Muốn nghe âm thanh cuộc sống nhưng tất cả đều trở nên hoang vu, muốn chút gần gũi mà càng thêm cách chia. Vì thế sầu buồn càng thêm man mác...
    • 2 câu cuối: “Nắng xuống… bến cô liêu”
      Không gian được đẩy cao và mở rộng đột ngột, trải ra đến vô cùng khi nhà thơ hạ hai câu tuyệt bút. Từng vạt nắng từ trời cao rọi xuống làm nên những khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tác giả dùng chữ “sâu” chứ không phải chữ “cao”, bởi đó không chỉ là chiều kích không gian mà còn gợi lên nỗi buồn không đáy của lòng người.

    c) Khổ 3: nỗi cô đơn, sầu buồn về sự trôi nổi, lênh đênh vô định kiếp người

    • Hai câu thơ: “Mênh mông… niềm thân mật”
      Không có một chuyến đò, không có một chiếc cầu nhỏ nối giữa hai bờ. Một loạt từ “không” xuất hiện liên tiếp đã phủ định tất cả những gì là gắn kết, chỉ còn những trống trải vô cùng: hai bờ bên là những thế giới xa lạ.
    • Chỉ có “bờ lau tiếp bãi vàng” và những cánh bèo lênh đênh đang trôi dạt về đâu. Ấn tượng về sự tan tác, chia lìa lại càng được tô đậm bằng hình ảnh những cánh bèo trôi nổi.

    d) Khổ cuối: nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp

    • 2 câu đầu: không gian rộng lớn hùng vĩ, khoáng đạt vô cùng của buổi hoàng hôn
      Thiên nhiên tạo vật bộc lộ những vẻ đẹp đến lạ lùng: Những buổi chiều mùa hạ, mây trắng như những búp bông bung nở trên trời cao, ánh nắng buổi chiều trước khi vụt tắt thường rực sáng nên chiếu vào những núi, những mây chồng chất lên nhau khi nào lung linh như những núi bạc. Một vẻ khoáng đạt hoành tráng, mĩ lệ.
    • So sánh với câu thơ Lí Bạch: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế lưu”, câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan :“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Huy Cận cũng có nhiều lúc như để tấm lòng ở nước non xưa, ở chốn vũ trụ thanh cao, song chính nỗi đau của ông nhói lên ở những cảnh đời hiện tại
    • 2 câu kết:
      Hai từ “dợn dợn” gợi cảm giác đã đồng nhất những con sóng đang trào lên trên dòng trường giang với những con sóng gợn ngợp trong lòng tác giả.
    • Hai câu thơ gợi nhớ đến ý thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê thì Huy Cận không cần chất xúc tác đó. Rõ ràng nỗi buồn không phải từ ngoại cảnh vào mà là nỗi buồn nội tâm con ng tràn ra không dứt. Người xưa xa quê mà nhớ quê còn Huy Cận đang đứng trước quê hương đất nước mà vẫn rưng rưng một nỗi nhớ nhà. Vì sao vậy? Đó không chỉ là nhớ về 1 vùng quê mà đó là tâm trạng của 1 lớp thế hệ trẻ khi đất nước đang chìm trong nô lệ.
    • Trong khi Thế Lữ, Chế Lan Viên chọn cách sống trong một cõi mộng với “tiếng sáo thiên thai”, với “tinh cầu giá lạnh trơ trọi giữa vườn xa”, khi Vũ Hoàng Chương chìm đắm trong thuốc phiện và xa hoa thì “Tràng Giang” của Huy Cận thực sự là “bài ca giang san đất nước, dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu)

    3. Đánh giá

    • Bài thơ có sự kết hợp tuyệt diệu giữa cảnh và tình, hai mà như một, không chỉ gợi lên cảnh sông nước đất Việt mà còn là nỗi niềm của người con trước giang san đất nước.
    • Nghệ thuật: Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Hình ảnh thơ không gọt giũa, dụng công mà vẫn có sức gợi đến khôn cùng. Chất Đường thi của Thôi Hiệu thuở trước giờ đã trở thành chất lãng mạn của Huy Cận ngày hôm nay rồi.


    III. Kết bài

    Tổng kết lại, nêu cảm nghĩ

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

    Top 7 Dàn ý phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận (Ngữ văn 11) hay nhất

    1. top 1 Bài tham khảo số 1
    2. top 2 Bài tham khảo số 2
    3. top 3 Bài tham khảo số 3
    4. top 4 Bài tham khảo số 4
    5. top 5 Bài tham khảo số 5
    6. top 6 Bài tham khảo số 6
    7. top 7 Bài tham khảo số 7

    Công Ty cổ Phần Toplist
    Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
    Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
    Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
    Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
    Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy