Bài tham khảo số 7
Hàn Mặc Tử là một cây bút tiêu biểu cho “phong trào Thơ mới” Việt Nam, nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét về ông là “Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng”. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông có thể kể đến như: tập thơ “Gái quê”, “Thơ Điên”, “Chơi giữa mùa trăng”,…
Đặc biệt, tác phẩm “Mùa xuân chín” đã đem lại cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp. Qua đó, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên, con người và nỗi khát khao giao cảm với đời.
Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã khiến chúng ta hình dung ra khung cảnh mùa xuân rực rỡ, căng tràn sức sống. Cách kết hợp động từ chỉ trạng thái “chín” với danh từ “mùa xuân” cho ta cảm nhận không gian tràn đầy sức sống. Nhan đề bài thơ khơi gợi về sự mềm mại, đằm thắm của mùa xuân.
Mạch cảm xúc của tác phẩm đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh. Trước khung cảnh mùa xuân rực rỡ, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên, nỗi nhớ quê hương da diết. Giọng điệu thơ có sự chuyển đổi theo tâm trạng của nhân vật trữ tình, khi thì tha thiết, vui tươi, khi thì ngưng đọng, suy tư.
Mở đầu văn bản là bức tranh làng quê thanh bình, yên tĩnh. Thiên nhiên được gợi lên dưới ngòi bút tài hoa của tác giả “làn nắng ửng”, “khói mơ tan”, “bóng xuân sang”. Hình ảnh “làn nắng ửng” khiến ta tưởng tượng đến màu vàng nhạt của nắng buổi bình minh. Còn hình ảnh “khói mơ tan” lại đem đến hai cách hiểu: khói bếp phát ra từ những căn nhà trong buổi sớm hoặc có thể đó chính là làn sương khói tinh mơ của ngày mới.
“Làn nắng ửng” kết hợp với “khói mơ tan” tạo cảm giác sương khói đang dần tan biến khi mặt trời lên. Mùa xuân len lỏi qua mái nhà và giàn thiên lí. Câu thơ “Sột soạt gió trêu tà áo biếc” với biện pháp đảo ngữ và từ láy “sột soạt” góp phần diễn tả âm thanh và sự tình tứ, trêu đùa của gió với tà áo biếc nhẹ bay. Biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được nhà thơ sử dụng trong câu “Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang” khiến mùa xuân được hữu hình hóa. Câu thơ được ngăn cách bởi dấu chấm khiến nhịp thơ thay đổi từ 2/2/3 sang 4/3 nhằm nhấn mạnh dấu ấn của mùa xuân. Tác giả gieo vần chân một cách tinh tế “vàng”, “sang”, “trời”, “chơi” khiến người đọc tưởng tượng ra một không gian rộng lớn. Mùa xuân sang khiến cỏ cây, đất trời và lòng người như hòa vào nhau: “Sóng cỏ xanh gợn tới trời”. Câu thơ không chỉ diễn tả mật độ của cỏ mà còn gợi ra sự chuyển động của gió. Trên nền bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy là sự xuất hiện của con người:
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”.
Và:
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc.
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Nổi bật trong khung cảnh thiên nhiên là con người đang trong độ “tuổi xuân”. Hình ảnh “Bao cô thôn nữ hát trên đồi” thể hiện sự hòa quyện của con người trước thiên nhiên. Mùa xuân ấm áp, căng tràn sức sống khiến con người cảm thấy xuyến xao, hạnh phúc.
Câu thơ “- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” giống như một lời nói trực tiếp. Ý thơ bộc lộ chút gì đó tiếc nuối của người chứng kiến khung cảnh “đám xuân xanh”, hoặc cũng có thể là nuối tiếc của vị “khách xa”.
Tiếng ca của các cô gái được khắc họa qua từ láy “hổn hển”, “thầm thĩ” khiến người đọc cảm nhận được sự trầm bổng trong tiếng hát, lúc thì thiết tha, khi thì gấp gáp, dồn dập. Tiếng hát như nhịp chuyển động của thời gian đầy ý vị.
“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”
Khác với ba khổ thơ đầu, khổ thơ cuối có sự chùng xuống trong tâm trạng nhân vật trữ tình. “Khách xa” có thể hiểu là khách từ phương xa đến thăm làng lúc “mùa xuân chín”, hoặc “khách xa” ở đây có thể là nhân vật trữ tình. Điều này đúng với hoàn cảnh của Hàn Mặc Tử, ông cho rằng bản thân giờ chỉ là một người “khách xa” với quê hương.
Người khách gặp đúng lúc mùa xuân chín mà lòng nhớ về quê nhà. Câu thơ ” – Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” với sự thay đổi trong cách ngắt nhịp, nhịp thơ từ 2/2/3/ sang 4/3 và dấu gạch ngang ở đầu khiến câu thơ trở thành lời bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhân vật trữ tình.
Người khách xa tự hỏi lòng mình rằng liệu năm nay chị ấy còn gánh thóc bên bờ sông không. Câu thơ vừa diễn tả hành động gánh thóc, vừa gợi ra không gian mùa hè “nắng chang chang”.
Cách gieo vần chân “làng” – “chang” khiến dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình như được kéo dài ra. Khổ thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ, khát khao giao cảm mãnh liệt với đời của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Bài thơ “Mùa xuân chín” đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống. Bức tranh ấy được gợi lên với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh của thiên nhiên và con người. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, so sánh, ẩn dụ, nhân hóa cũng góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm. Bài thơ thể hiện nỗi khát khao giao cảm với đời của một con người xa quê và đang bị bệnh tật giày vò.