Bài tham khảo số 9
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được biết đến với vai trò là một nhà lãnh đạo kiệt xuất. Mà còn là một nhà văn, nhà thơ với nhiều tác phẩm có giá trị. Trong đó, bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh được coi là “áng văn chính luận mẫu mực” nhất của mọi thời đại.
Trước hết, nghệ thuật lập luận của bản tuyên ngôn độc lập được thể hiện qua việc Bác đã xây dựng được một cấu trúc lập luận logic, chặt chẽ với ba luận điểm chính: cơ sở pháp lý, cơ sở thực tế và lời tuyên bố độc lập. Ở phần cơ sở thực tế, Người đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn độc lập của Pháp và Mỹ để khẳng định những quyền con người, quyền dân tộc (quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc...) của dân tộc Việt Nam. Sau đó, đến cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn, Bác đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp cùng với công cuộc đấu tranh của nhân dân ta và khẳng định tinh thần nhân đạo của Việt Minh - hay của chính dân tộc Việt Nam và tranh thủ sự ủng hộ của các nước Đồng minh. Cuối cùng là lời tuyên bố độc lập, khẳng định trước thế giới về nền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam, bày tỏ ý chí giữ vững nền độc lập ấy.
Cụ thể là khi xác định cơ sở pháp lý cho bản tuyên ngôn độc lập, Người đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn: Tuyên ngôn của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 để khẳng định quyền những quyền con người, quyền dân tộc của dân tộc Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 khẳng định “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; Còn Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đây là hai bản tuyên ngôn được quốc tế công nhận, vì vậy mà không ai có quyền bác bỏ những quyền lợi trên của con người. Đồng thời, Người cũng sử dụng một thủ pháp vô cùng độc đáo “gậy ông đập lưng ông” nhằm đánh vào kẻ thù xâm lược khi hành động của chúng đã làm vấy bẩn lên ngọn cờ nhân đạo và chính nghĩa mà tổ tiên họ đã phải chiến đấu mới có được. Việc đặt hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ - hai cường quốc lớn trên thế giới ngang hàng với bản tuyên ngôn của Việt Nam cho thấy được lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Cuối cùng, Bác chính dẫn nhưng trích dẫn một cách sáng tạo, thể hiện ở chữ “suy rộng ra..” để khẳng định quyền tự do của mỗi con người. Cách lập luận ở đây đầy khéo léo và sáng tạo.
Tiếp đến, Bác đưa ra những cơ sở thực tế với lý lẽ, dẫn chứng vô cùng xác đáng. Pháp luôn kể công khai hóa và bảo hộ dân tộc Việt Nam, thì nhân danh người dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã bác bỏ điều đó. Trong tám mươi năm thống trị nước ta chúng đã gây ra bao tội ác tày trời làm đau khổ người Việt Nam. Bác đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể, phong phú được chắt lọc từ những sự thật không thể chối cãi được. Pháp bóc lột nhân dân ta trong mọi mặt đời sống từ kinh tế, văn hóa - giáo dục đến mọi tầng lớp nhân dân. Trong hai năm, chúng bán nước ta hai lần cho Nhật, trong khi Việt Minh cứu giúp cho nhiều người Pháp thì chúng lại nhẫn tâm giết chết số đông tù chính trị của ta. Như vậy, Bác khẳng định lại đó không phải là công mà là tội. Việc sử dụng những hình so sánh, ẩn dụ kết hợp với lối điệp cấu trúc “chúng…” đã góp phần không nhỏ vào việc chỉ ra những tội ác của kẻ thù. Đồng thời, Người cũng biểu dương tinh thần đấu tranh của nhân dân ta: cùng lúc phá bỏ ba xiềng xích lớn là thực dân Pháp, phát xít Nhật và chế độ phong kiến. Từ đó, khẳng định rằng quyền được tự do, độc lập của Việt Nam phù hợp với nguyên tắc dân tộc bình đẳng tại hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn để kêu gọi các nước Đồng minh cùng với cộng đồng quốc tế công nhận điều đó.
Cuối cùng là lời tuyên bố độc lập mang dáng vẻ của “bài thơ thần” khi xưa Lý Thường Kiệt đã từng cảnh báo kẻ thù:
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Như đẳng hành khan thủ bại hư”
(Nam quốc sơn hà)
Người đã khẳng định: Độc lập tự do vừa là quyền lợi, vừa là chân lý bất khả xâm phạm, yêu cầu quốc tế phải thừa nhận: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Bác cổ vũ khích lệ tinh thần nhân dân: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Giọng điệu hùng biện của Lý Thường Kiệt khi xưa đã được Bác vận dụng sáng tạo đoạn cuối của bản “Tuyên ngôn độc lập”.
Như vậy, “Tuyên ngôn độc lập” chính là một áng văn chính luận xuất sắc. Không chỉ có giá trị về nội dung mà còn về cả nghệ thuật lập luận.