Bài văn phân tích bài thơ "Đập đá ở Côn Lôn" của Phan Châu Trinh số 8
Đầu năm 1908, nhân dân Trung Kì nổi dậy chống chính sách sưu cao thuế nặng của chính quyền thực dân, phong kiến. Phan Châu Trinh – nhà chí sĩ yêu nước đề xướng phong trào dân chủ và bãi bỏ chế độ quân chủ đã bị Pháp bắt giam, kết án chém và đày ra Côn Đảo (tháng 4 -1908). Vài tháng sau, nhiều nhân sĩ cũng bị đày ra đây.
Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn được sáng tác trong lúc Phan Châu Trinh cùng các tù nhân chính trị khác bị bắt lao động khổ sai đập đá:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!
Bằng nghệ thuật ẩn dụ tượng trưng, bài thơ đã dệt nên hình tượng hiên ngang, lẫm liệt của người anh hùng cứu nước, trong lúc nguy nan vẫn giữ vững chí khí dời non lấp bể. Cái độc đáo của bài thơ là ở chỗ tác giả nói về công việc hết sức nặng nhọc là đập đá mà như nói về một công cuộc chinh phục thiên nhiên dũng mãnh và đầy khí phách của một dũng sĩ trong thần thoại.
Côn Đảo là một hòn đảo nằm ở vùng biển phía đông nam nước ta, nơi thực dân Pháp lập nhà tù giam cầm những chiến sĩ yêu nước và Cách mạng. Tù nhân buộc phải lao động khổ sai và không ít người đã gục ngã vì kiệt sức, vì bệnh tật, đòn roi của lũ cai ngục độc ác, dã man.Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu quan niệm về “chí làm trai” của tác giả nói riêng và của các nhà Nho thuở ấy nói chung.
Thủa trước, vị Thượng quan Nguyễn Công trứ đã từng tuyên bố: Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông. Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể. Chí sĩ Phan Bội Châu thì khẳng định: Đã sinh làm trai thì cũng phải khác đời. Còn trong bài thơ này, Phan Châu Trinh nhấn mạnh: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn, Lừng lẫy làm cho lở núi non. Câu thơ thể hiện tư thế hiên ngang, sừng sững giữa trời cao, biển rộng và thái độ kiêu hãnh, tự hào, cùng khát vọng lớn lao của những chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã.
Công việc đập đá vô cùng vất vả, nguy hiểm đã được tác giả miêu tả bằng nghệ thuật cường điệu (hay còn gọi là lối nói khoa trương). Mỗi hình ảnh là một ẩn dụ đặc sắc, chứa đựng ý nghĩa sâu xa:
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Quả là những dũng sĩ khổng lồ tiếng tăm lừng lẫy, hành động phi thường và sức mạnh thật là ghê gớm. Điều thú vị là các động tác ước lệ ấy lại giống hệt như những động tác của tù nhân trong công việc khai thác đá hằng ngày.
Phan Châu Trinh đã khắc họa rất thành công hình ảnh kiêu hùng của người tù cách mạng với tầm vóc và tư thế ngang tầm vũ trụ. Họ đã biến công việc lao động khổ sai nặng nhọc thành một cuộc chinh phục dũng mãnh của những con người có ý chí lớn lao và sức mạnh thần kì. Qua bốn câu thơ đầu, tác giả đã dựng lên một tượng đài uy nghi về người anh hùng với khí phách hiên ngang, lẫm liệt.
Nếu trong bốn câu thơ đầu, tác giả kết hợp giữa miêu tả và biểu cảm thì trong bốn câu thơ cuối, tác giả trực tiếp bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ của mình:
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!
Đây là khẩu khí ngang tàng của người anh hùng không chịu khuất phục hoàn cảnh, xem thường mọi thử thách gian nan, luôn giữ vững khí tiết, niềm tin và ý chí chiến đấu. Vẻ đẹp tinh thần này kết hợp với tầm vóc lẫm liệt, oai phong được miêu tả ở trên đã tạo nên một hình tượng nghệ thuật giàu tính sử thi, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Để làm nổi bật chí lớn, gan to của người anh hùng, tác giả đã đặt nhân vật trong thế tương quan đối lập với những thử thách lớn lao. Ở câu 5-6 là sự đối lập giữa những thử thách gian nan (tháng ngày, mưa nắng) và sức chịu đựng kiên trì, bền bỉ cùng ý chí chiến đấu, chiến thắng mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng (thân sành sỏi, dạ sắt son).
Câu 7 – 8 nêu bật khí phách cương cường rất đáng khâm phục của những con người dám mưu đồ sự nghiệp cứu nước vào những năm đầu thế kỉ XX. Tác giả tự hào gọi họ là Những kẻ vá trời và so sánh hành động của họ giống với hành động đội đá vá trời của bà Nữ Oa trong thần thoại Trung Quốc ở tính chất vĩ đại, phi thường.
Bởi thế nên những thử thách trên bước đường chiến đấu được Phan Châu Trinh và các đồng chí của ông coi chỉ là những việc con con (tầm thường, không đáng kể). Sự thật thì bản án tử hình và hoàn cảnh tù đày khắc nghiệt mà ông đang phải chịu đựng đâu có phải là việc con con? Có điều, đặt bên cạnh lí tưởng vì dân vì nước thì quả là nó chẳng có gì đáng phải bận tâm.
Âm hưởng chung của bài thơ là hào hùng, sảng khoái. Cảm xúc của nhà thơ bay bổng vượt lên trên thực tế tù đày và sự nặng nhọc, hiểm nguy của công việc đập đá ở Côn Lôn. Vẻ đẹp của Những kẻ vá trời khi lỡ bước biểu hiện ở khí phách ngang tàng, lẫm liệt trước những thử thách, gian lao, ở ý chí chiến đấu bất khuất và niềm tin vững chắc vào thắng lợi.
Bài thơ là hình tượng tuyệt vời về những người anh hùng cứu nước đầu thế kỉ XX. Họ đã chấp nhận hi sinh cuộc đời mình để đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại chủ quyền độc lập tự do thiêng liêng cho đất nước và dân tộc Việt Nam.