Bài văn phân tích chất thơ trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" số 7
Tô Hoài là một trong những văn nghệ sĩ đầu tiên rời Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp. Suốt chín năm, ông đi thực tế ở nhiều nơi, chung sống với đồng bào các dân tộc thiểu số như người Thái, người Mường ở chân núi, lưng chừng núi; người Dao, người Mông trên những đỉnh núi đá cao chót vót quanh năm mây phủ… Tây Bắc gắn bó máu thịt với Tô Hoài và đã trở thành quê hương thứ hai của ông bởi những kỉ niệm sâu sắc không thể nào quên, vốn sống phong phú về thiên nhiên và con người Tây Bắc là mạch nguồn cảm hứng vô tận giúp tác giả sáng tác được nhiều tác phẩm về đề tài miền núi mà Truyện Tây Bắc (1953) là tiêu biểu nhất.
Trong tập truyện này, Tô Hoài phản ánh chân thực và sinh động đời sống cơ cực, tối tăm của đồng bào các dân tộc dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp và bọn lang đạo, chúa đất tay sai; đồng thời phản ánh con đường đến với cách mạng, với kháng chiến của họ. Nhà văn cho biết là khi sáng tác Truyện Tây Bắc, ông đã dựa vào những ý thơ trong văn xuôi. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ thể hiện rất rõ điều đó.
Thế nào là ý thơ trong văn xuôi? Có thể hiểu đó là những rung cảm của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con người… được đề cập tới trong tác phẩm. Từ đó, tác giả truyền những rung động, những cảm xúc thẩm mĩ đến người đọc. Ý thơ trong văn xuôi thể hiện khá rõ qua bút pháp miêu tả thiên nhiên vừa giàu tính hiện thực vừa đậm đà chất trữ tình của Tô Hoài. Tác giả miêu tả cảnh vật Tây Bắc bằng cảm nghĩ và cách diễn đạt của người dân miền núi. Khung cảnh mùa xuân, ngày Tết trên vùng núi cao có sức hấp dẫn lạ kì, vừa là phong tục vừa là bức tranh thiên nhiên thơ mộng với màu sắc rực rỡ và đường nét uyển chuyển giàu chất tạo hình.
Vốn có khả năng quan sát sắc sảo và sự cảm nhận tinh nhạy nên cách tạo dựng bối cảnh, tình huống, miêu tả thiên nhiên trong sáng tác của Tô Hoài thường sống động và đầy chất thơ. Tiêu biểu là cảnh ngày Tết và mùa xuân trên núi cao, là lời hát yêu đương và tiếng sáo du dương gọi bạn tình trong những đêm xuân, là cảnh uống rượu của người Mông… Đoạn văn tả khung cảnh Hồng Ngài trong những ngày Tết có những chi tiết, hình ảnh mang đậm “hồn” của cảnh vật và con người Tây Bắc: Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi… Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp trên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên các mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi… Tiếng sáo du dương, trầm bổng đêm tình mùa xuân gợi nhớ bài hát quen thuộc của trai gái người Mông thường hát trong những ngày xuân với lời lẽ mộc mạc, hồn nhiên mà không kém phần say đắm:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.…
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…
Ngôn ngữ giản dị mộc mạc vậy mà hàm chứa cái lẽ sống phóng khoáng tự do của con người. Lẽ sống đơn giản ấy qua tiếng sáo đã vọng vào tâm hồn Mị, cô gái có một thời thổi sáo rất hay. Những bức tranh sinh hoạt, những phong tục có từ ngày xưa, đặc biệt là cảnh ăn Tết của người Mông được tác giả miêu tả bầng những hình ảnh, chi tiết tiêu biểu thể hiện đặc điểm riêng rất phong phú, đa dạng của con người và thiên nhiên Tây Bắc:
Tiếng chó sủa xa xa.
Những đêm tình mùa xuân đã tới
Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm cái sân chơi chung ngày Tết. Trai gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy. Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma. Xung quanh, chiêng đánh ầm ầm người ốp đồng vẫn còn nhảy lên xuống, run bần bật Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa.
Tục “cướp vợ” của người Mông được tác giả miêu tả tỉ mỉ gây ấn tượng thú vị, ngạc nhiên đối với người đọc: Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Một đêm khuya, Mị nghe có tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu… Mị bèn nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay dắt Mị bước ra… Tiếc thay, bàn tay ấy không phải là của người yêu Mị mà là của một kẻ trong đám “cướp vợ” của A Sử – gã con trai ngang ngược và độc ác nổi tiếng trong vùng. Sáng hôm sau, A Sử đến nhà báo cho bố Mị biết: Tôi đã cướp được con gái bố làm vợ, tôi đem về cúng trình ma nhà tôi rồi, bây giờ tôi đến trình cho bố biết Tiền bạc để cưới thì bố tôi bảo đã đưa cả cho bố rồi. Sau lễ cúng trình ma, Mị trở thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí, món nợ nhỏ nhoi mà cha mạ cô nợ hắn từ lúc mới lấy nhau.
Ý thơ trong văn xuôi còn thể hiện qua bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc và tinh tế của Tô Hoài, khắc họa nổi bật vẻ đẹp tâm hồn và sức sống, nhất là khát vọng tự do, khát vọng tình yêu và sự đồng cảm của hai nhân vật chính. Trước hết là nhân vật A Phủ – đầy tớ trừ nợ của nhà thống lí Pá Tra. Tác giả giới thiệu A Phủ bằng sự xuất hiện đột ngột của anh để gây chú ý cho người đọc rồi mới kể về lai lịch. Trong cuộc đánh nhau của trai làng bên với bọn A Sử, A Phủ dám đối đầu với A Sử – tên con trai nhà giàu trâng tráo và hung hãn. A Phủ dũng mãnh giành được thế áp đảo..
Đoạn văn miêu tả cảnh đánh nhau có một loạt từ ngữ miêu tả hành động với nhịp điệu nhanh, mạnh, dồn dập: Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt, Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xẻ vai áo, đánh tới tấp. A Phủ mang dáng dấp và hình ảnh của một chàng trai hào hiệp trong dân gian: to lớn, khỏe mạnh, can đảm và nghĩa khí. Chàng trai ấy không sợ đối mặt với bọn con quan ; ngược lại, anh thẳng tay trừng trị chúng vì chúng dám quấy phá cuộc vui xuân của bạn bè mình. A Phủ nắm lấy cái vòng cổ bạc có tua chỉ xanh đỏ của A sử – dấu hiệu con cái nhà quan – để kéo dập đầu nó xuống, xé áo nó ra mà đánh tới tấp cho hả giận.
Đoạn văn tả cuộc xử kiện là bức tranh phong tục sinh động của xã hội phong kiến ỏ miền núi Tây Bắc: Bọn chức việc khắp vùng Hồng Ngài đến nhà thống lí Pá Tra dự đám xử kiện. Các lí dịch, quan làng, thống quán, xéo phải đội mũ, quấn khăn, xách gậy, cưỡi ngựa kéo đến xử kiện và ăn cỗ. Trong nhà thống lí đã bày năm cái bàn đèn. Khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp. Cả những người chức việc bên làng A Phủ cũng tới. Nhưng chỉ bọn con trai làng ấy phải ngồi khoanh tay cạnh A Phủ vì họ bị gọi sang hầu kiện, còn bọn chức việc thì nằm dài cả bên khay đèn. Suốt từ trưa cho tới hết đêm, mấy chục người hút. Trên nhất là thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người khác hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về dự kiện. Chỉ có đàn bà ngồi trong buồng hoặc đi lại bên ngoài dòm ngó đám xử kiện và A Phủ quỳ chịu tội ở xó nhà, là không được dự tiệc hút ấy. Lúc một loạt người vừa hút xong, Pá Tra ngồi dậy, vuốt ngược cái đầu trọc dài, kéo đuôi tóc ra đằng trước, cất giọng lè nhè gọi:
– Thằng A Phủ ra đây.
A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa tên thống lí Pá Tra rồi quay lại đánh A Phủ. A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá.
Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ… Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút… Qua cách miêu tả tì mỉ, sinh động, người đọc nhận thấy sự hiểu biết cặn kẽ, tường tận của Tô Hoài về thực tế cuộc sống và phong tục tập quán của xứ sở có nhiều cây thuốc phiện. Tô Hoài đã lưu vào văn chương hình ảnh độc ác của bọn lang đạo, chúa đất vùng cao Tây Bắc cùng sự bất công của hủ tục và nỗi oan khiến chồng chất của người nghèo. Tô Hoài tả cảnh xử kiện ấy với một vẻ ghê rợn rất khó quên.
Trong đọan văn đặc sắc đầy ắp tính hiện thực nói trên thì chi tiết ám ảnh người đọc nhất là chi tiết cuối cùng: Đến lúc không phải quỳ, phải đánh nữa, A Phủ được đứng lên, chân đau bước đi tập tễnh nhưng phải cầm dao làm thịt lợn hầu hạ chính những kẻ đã đánh mình, những kẻ biến mình từ nay thành nô lệ trong nhà thống lí. Sự bất công, bất nhân của đám lang đạo chúa đất dường như đạt tới điểm đình. Khi miêu tả A Phủ, tác giả cỏ dụng ý thể hiện tính cách của những con người vùng cao Tây Bắc. A Phủ là đứa con của núi rừng tự do. Cuộc sống phóng khoáng gần gũi thiên nhiên và tính tình chất phác, cương trực của A Phủ cũng là nét tính cách đặc trưng của trai làng người Mông.
A Phủ mồ côi cha mẹ, nghèo khổ không có ruộng nương, không có cả cái vòng bạc đeo cổ để đi chơi Tết. A Phủ từng bị bắt bán xuống vùng người Thái dưới chân núi. Cuộc sống cùng cực đã hun đúc cho A Phủ một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuộng tự do và tính cách gan góc cùng với tài năng lao động đáng quý. A Phủ thành thạo và ham thích những công việc lao động nặng nhọc và khó khăn, nguy hiểm. Anh biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê, nhiều người nói: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu".
Một chàng trai khỏe mạnh vốn không nợ nần gì nhà Pá Tra, lại lao động giỏi, sống tự do như chim trời giữa núi rừng, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của bọn chúa đất, phải rơi vào thân phận nô lệ. Điều đó làm tăng thêm sức tố cáo sự áp bức bất công của xã hội thực dân phong kiến. Một hôm, khi đi chăn bò, A Phủ sơ ý để hổ bắt mất một con. A Phủ xin Pá Tra cho mượn súng đi bắn hổ. Pá Tra giận dữ ra lệnh trói đứng A Phủ vào cọc suốt mấy ngày đêm. Đau đớn, đói khát và tủi nhục khiến cho người con trai dũng mãnh ấy tuyệt vọng: một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Trong hoàn cảnh cùng cực tưởng như không còn gì để mà hy vọng, A Phủ đã được một cô gái cùng cành ngộ cứu giúp. Sau khi được Mị cắt dây trói, A Phù ngã khuỵu xuống, nhưng rồi khát vọng sống thôi thúc mãnh liệt khiến anh quật sức vùng lên, chạy.
Mị vốn là một cô gái xinh đẹp, hồn nhiên và đầy sức sống. Khi bị bắt vể làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra, Mị đã phản kháng quyết liệt bằng cách định ăn lá ngón tự tử.. Nhưng rồi kiếp sống nô lệ triền miên dường như đã làm tê liệt sức phản kháng và cô đành cúi đầu cam chịu số phận. Đoạn văn mở đầu tả cảnh Mị ngồi làm việc trước cửa nhà thống lí có nhịp điệu chậm rãi, giống như những câu thơ trữ tình có âm hưởng u buồn, trầm lắng, rất phù hợp với việc diễn tả chân dung và thể hiện tâm trạng chán chường, đau khổ cùng thân phận bị ràng buộc của cô gái bất hạnh. Mị đã phải sống nhiều năm trong không khí ngột ngạt, tù đọng và bị lãng quên: Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi…
Tuy vậy, trong con người Mị vẫn tiềm tàng một sức sống cùng với khát vọng tình yêu và tự do. Sức sống của nhân vật này ẩn giấu ở nội tâm, chỉ bùng lên trong những thời điểm nhất định và biểu hiện qua những hành động quyết liệt, táo bạo. Trong suốt phần đầu của truyện, hầu như Mị không nói lời nào, ngoại trừ câu nói với cha được dẫn lại qua lời người kể chuyện. Điều đó cho thấy Mị là người có đời sống nội tâm âm thầm mà mạnh mẽ. Sự trỗi dậy của sức sống thanh xuân cùng khát vọng tự do cháy bỏng ở nhân vật Mị thể hiện qua nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế và sâu sắc của tác giả trong đoạn tả đêm xuân ở Hồng Ngài. Tâm trạng của Mị tràn đầy cảm xúc trữ tình. Mị bâng khuâng, da diết nhớ và nuối tiếc quá khứ tươi đẹp chưa xa: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.
Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mà ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Rượu đã tan lúc nào. Người về người ở chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết Mị cũng chẳng buồn đi Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…
Tác động của ngoại cảnh là mùa xuân đến cùng tiếng sáo gọi bạn tình, bữa rượu bên bếp lửa đã thức tỉnh Mị. Quá trình thức tỉnh của Mị bắt đầu từ sự bừng dậy trong tiềm thức những hồi ức, kỉ niệm của quá khứ. Rồi Mị chìm đắm trong tiếng sáo. Ý thức về thời gian cũng đã trở lại cùng với khát vọng sống và ý thức về thân phận mình. Từ ý thức tới hành động của Mị đều thể hiện điều đó. Mị thắp đèn sáng lên, quấn lại tóc, rút chiếc váy hoa, chuẩn bị đi chơi. Bị A Sử đánh và trói vào cột không cho đi chơi, nhưng Mị cũng không hề phản ứng. Mị vẫn mê mải sống với những khao khát cháy bỏng: Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…" Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi… Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tình. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.
Đây là đoạn văn hay nhất bởi nó thấm đẫm cảm xúc trữ tình. Ý thơ trong văn xuôi được Tô Hoài thể hiện một cách tài tình qua tiếng sáo. Người đọc lắng nghe thật kĩ tiếng sáo vút lên hòa cùng nỗi niềm của cô gái Mông khi mùa xuân về. Tiếng sáo là ngôn ngữ giao tiếp đặc biệt bằng âm thanh của người Mông. Từ thực tế ấy, Tô Hoài đã công phu sáng tạo và sử dụng rất “dắt” chỉ tiết tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân để miêu tà diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị đang bị cầm giữ trong căn buồng tối tăm, ngột ngạt. Tiếng sáo trở đi trở lại nhiều lần như những lời nhắn nhủ, rủ rê, mời gọi đầy ám ảnh. Lúc đầu, tiếng sáo vọng lại từ ngoài đầu núi: Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Sau đó, tiếng sáo vẳng lại từ phía đầu làng: Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Rồi tiếng sáo đến gần thêm: Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường. Lúc này, tiếng sáo không chỉ gọi bạn mà là gọi bạn yêu, nó cũng không còn lấp ló mà trở nên lửng lơ, nghĩa là có đường nét hơn và gợi cảm hơn. Cuối cùng, tiếng sáo rập rờn ở ngay trong đầu Mị, cô gái đáng thương đang khát khao tự do và tình yêu.
Nhà văn tả tiếng sáo hết lấp ló lại lửng lơ, rập rờn… Tiếng sáo bên ngoài cộng hưởng với tiếng sáo trong kí ức tạo nên một nhạc điệu tình cảm xao xuyến, bồi hồi. Nghe tiếng sáo văng vẳng đầu làng thì Mị nhớ lại ngày trước, Mị thổi sáo giỏi… Có bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Tiếng sáo đêm xuân gợi dậy cả một thời con gái tươi đẹp, hồn nhiên. Có một sự cộng hưởng lạ lùng giữa tiếng sáo của hiện tại với tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân ngày trước, giữa tiếng sáo gọi bạn tình và tiếng sáo của Mị năm nào. Sau khi bị A Sử trói đứng trong buồng, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi, sợi dây đay thít chặt của gã A Sử tàn bạo chỉ có thể trói buộc được thân xác Mị chứ không thể trói buộc được tâm hồn Mị, một khi tiếng sáo tình yêu đang rập rờn trong đầu cô. Tiếng sáo càng gần thì sự cảm nhận của Mị về cuộc sống, về tình yêu càng mãnh liệt.
Diễn biến phức tạp trong tâm trạng Mị khi đắm chìm trong dòng hồi tưởng và trong hiện tại đã được tác giả thể hiện ở nhiều cung bậc khác nhau và đều đạt tới chiều sâu tâm lí của nhân vật trữ tình. Đoạn văn tả suy nghĩ và hành động đột ngột của Mị trước cảnh A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra trói đứng vào cột bếp đã mấy ngày đêm đang đói khát, đau đớn chờ chết cũng đạt tới trình độ như vậy. Sự thay đổi nhịp điệu, tiết tấu của câu văn, đoạn văn từ chậm sang nhanh nhằm thể hiện sự trỗi dậy bất ngờ của tinh thần phán kháng trong Mị trước cái xấu, cái ác và trước nỗi đau khổ của người cùng cảnh ngộ: Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần. Thường khi đến gà gảy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu dậy ra đem lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cải xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.
Hành động cắt dây trói cứu A Phủ là điểm đỉnh về vẻ đẹp tâm hồn, nhất là khát vọng tự do và sự đồng cảm sâu sắc của nhân vật Mị. Lúc đầu, thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên bởi cô đã quá quen với những cảnh ngang trái trong nhà Pá Tra. Tâm hồn Mị tưởng chừng đã bị đau khổ làm cho trở nên chai đá, giá lạnh; vì cô cho rằng chắc ít có người khốn khổ như mình. Nhưng rồi một đêm, qua ánh lửa bếp, nhìn sang thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại – biểu hiện sự đau đớn, tuyệt vọng của chàng trai gan góc, khỏe mạnh, thì Mị chợt xúc động. Mị càng thấy thương xót cho thân phận bất hạnh của mình. Những nỗi đau đớn, khổ nhục mà cô phải chịu đựng trong ngần ấy năm trời cuồn cuộn như nước Iũ ùa về trong tâm trí. Mị căm ghét cha con tên thống lí tàn bạo và tội nghiệp cho người thanh niên kia: Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết… Người kia việc gì mà phải chết thế? A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Trong lòng Mị trào lên một nỗi thương cảm cho thân phận của A Phủ. Tình thương đó đã thắng sự sợ hãi. Mị nghĩ mình có thể bị trói thay vào đấy và sẽ chết nhưng cũng không thấy sợ. Nỗi thương thân nhanh chóng chuyển thành thương người cùng cảnh ngộ, Tất cả những điều xảy ra trước mắt Mị giống như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước uất hận trong Mị ; thổi bùng ngọn lửa phản kháng tưởng chừng đã bị dập tắt bởi những cơn gió bạo lực triền miên và đem lại cho Mị một sức mạnh bất ngờ, xua tan nỗi sợ hãi cố hữu ám ảnh cô bấy lâu nay. Mị đã có một hành động bộc phát quyết liệt là cắt đứt dây trói cứu A Phủ và chạy trốn cùng anh ra khỏi nhà thống lí Pá Tra, ra khỏi Hồng Ngài.
Đoạn văn tả suy nghĩ và hành động đột ngột của Mị cắt dây trói cứu A Phủ được tác giả viết bằng một tiết tấu nhanh, dứt khoát, nhằm thể hiện thái độ phản kháng mạnh mẽ của Mị trước cái xấu, cái ác của cha con tên thống lí Pá Tra; sự đồng cảm sâu xa trước sự sống và cái chết của người cùng cảnh ngộ và cũng là của chính mình: Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ quật sức vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
– A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
– Ở đây thì chết mặt A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ có nhiều đoạn giống như những bài thơ với vần điệu nhịp nhàng, giàu nhạc tính cùng những hình ảnh chân thực đan xen với những hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng thường thấy trong nghệ thuật thơ ca. Chất thơ trong tác phẩm đã nâng con người vượt lên trên hoàn cảnh tăm tối, khổ đau; truyền cho người đọc tình cảm yêu mến và những rung cảm sâu xa về cuộc sống và con người Tây Bắc. Văn Tô Hoài mang giọng điệu trữ tình hấp dẫn. Tác giả lôi cuốn người đọc bằng sự từng trải, tinh tế, bằng phong vị đậm đà màu sắc dân tộc vùng cao. Đây cũng là thế mạnh, là sở trường trong phong cách sáng tác, khiến cho các tác phẩm của ông để lại dấu ấn sâu đậm và có sức sống lâu dài trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Với bảy mươi năm cầm bút, Tô Hoài đã cống hiến cho đời nhiều tác phẩm xuất sắc. Ông xứng đáng là cây đại thụ của nền văn học việt Nam hiện đại.