Bài văn phân tích hình ảnh bếp lửa số 8

Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt gợi nhớ bao kí ức tuổi thơ bên những người thân yêu, điển hình là người bà chịu thương chịu khó…Hình ảnh gợi lại những kỉ niệm tuổi thơ có khói bếp thơm nồng rơm rạ, có dáng bà tảo tần sớm khuya thắp lên bao mơ ước ngày nhỏ. Ngay từ những dòng mở đầu của bài thơ, người đọc đã thấy sự hiện diện của hình ảnh bếp lửa đầy ấm áp và thân thương:


“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”


Trong cái “chờn vờn sương sớm”, hình ảnh bếp lửa hiện lên thật gần gũi và thân thuộc trong mỗi gia đình từ bao đời nay. Ai cũng có một gia đình để gắn bó và yêu thương mà khi đi xa có lẽ hình ảnh mái nhà với những cuộn khói mỗi sớm mỗi chiều phảng phất trên mái sẽ là một trong những hình ảnh đọng lại rất sâu sắc trong tâm trí của mỗi người, nhất là khi họ phải đi xa.


Từ hình ảnh thân thuộc với gia đình, bếp lửa cứ thế tự nhiên trở thành hình ảnh của hồn quê, đất nước. Bên cạnh việc mở ra trong tâm trí tác giả hình ảnh về không gian thân thuộc của mái nhà, làng quê, bếp lửa còn mang cái “ấp iu” và chính điều này đã gợi đến hình ảnh của con người bên bếp lửa ấy. Đó là cái “ấp iu” của một bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa. Và không để người đọc phải chờ đợi lâu, ngay câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã để người nhóm lửa hiện diện với một tình cảm thương yêu vô ngần:


“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Người nhóm lửa ấy chính là người bà thân thương, người bà có cuộc đời nắng mưa không biết đếm sao cho hết. Từ ngọn khói buổi sớm, từ cách nhen lửa chăm chút, bếp lửa đã gọi về trong tâm tưởng người cháu hình ảnh của bà một cách thật nhẹ nhàng và tự nhiên để rồi sau đó, miền kí ức thân thương của một thời đã qua hiện về rất sống động, rõ ràng từng chi tiết. Điều này sẽ được thể hiện qua những khổ thơ tiếp theo.


Bếp lửa gắn với những kỉ niệm tuổi thơ bên người bà yêu thương. Sau những cảm xúc bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa, cả một thời thơ ấu bên bà đã được gợi lại. Đó là một tuổi thơ không ít những gian khổ, thiếu thốn và nhọc nhằn của những ngày lên bốn:


“Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”


Mạch cảm xúc được triển khai theo thời gian tuyến tính. Mở đầu cho nỗi nhớ về tuổi thơ là hình ảnh của những năm tháng tăm tối của nạn đói năm 1945. Đây là khoảng thời gian đầy ám ảnh bởi sinh mạng của hàng triệu người Việt Nam đã bị cướp đi một cách khủng khiếp. Những người may mắn thoát chết cũng sống dật dờ, lay lắt trông đến thảm thương. Người cháu trong tác phẩm cũng cùng chung cảnh ngộ ấy, chịu đói nghèo khổ sở và xa mẹ vắng cha (vì “mẹ và cha công tác bận không về”). Thế nhưng, đứa trẻ lại không hề đơn độc vì có sự cưu mang, che chở của người bà. Chính bếp lửa của bà đã giúp cháu vượt qua được những năm tháng của nạn đói kinh hoàng ấy.


Lời kể giản dị nhưng lại giúp nhân vật bộc lộ nên được những hoài niệm thiết tha. Phải chăng vì cái đói nên đứa trẻ phải theo sát từng bước chân bà, thường ngồi bên bếp lửa để được bà nấu cho những bữa ăn nên “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói”. Hình ảnh ấy chính là một phần kí ức khó phai mờ trong tâm trí nên thời gian dầu đã trôi qua ít nhiều nhưng nghĩ lại những lúc “khói hun nhèm mắt” thì cháu lại thấy “sống mũi còn cay!”.


Thời gian thấm thoát trôi đến thời điểm đã “tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”, bà không chỉ dành cho cháu những bữa ăn mà còn cho cháu một tuổi thơ đầy yêu thương. Tình cảm bà dành cho cháu ấm áp như ngọn lửa bà nhen. Bà là một chỗ dựa tinh thần, là sự cưu mang đùm bọc đầy chi chút. Dù không được sống bên bố mẹ nhưng cháu vẫn lớn lên nhờ có “bà kể chuyện những ngày ở Huế”, “bà bảo cháu nghe”, “bà dạy cháu làm”, “bà chăm cháu học” Nhờ sự dạy dỗ, bảo ban ấy của bà mà cháu có thể trưởng thành hơn và tự lập hơn mỗi ngày.


Đến khi đã trưởng thành và đủ nhạy cảm để nhận thấy “tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”, cháu lại thấy trỗi dậy trong lòng mình biết bao những hoài niệm và nhớ mong. Mỗi độ hè về, tiếng chim tu hú cất lên trên những cánh đồng quê nghe sao giục giã và tha thiết như khắc khoải một điều gì đó, cháu nhận ra lại một năm nữa trôi qua thật êm đềm bên bà. Thế nhưng, sự êm đềm cháu có được bao nhiêu lại là bấy nhiêu những khó nhọc đời bà nặng gánh vì cháu. Thế nên, chim tu hú tha thiết với tiếng gọi hè, cháu cũng tha thiết thương yêu một người bà đáng kính:


“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”


Cháu nhớ luôn cả những năm tháng giặc Pháp càn quét qua làng để ở chốn làng quê yên bình ấy chỉ còn lại sự mất mát thương đau:


“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”


Trong cảnh ấy, bà cháu đã sống bên nhau trong “túp lều tranh” nhưng cũng trong cảnh sống cơ cực đó, cháu đã được nhận từ bà những bài học làm người dù mộc mạc nhưng trong cái mộc mạc cháu lại thấy tấm lòng bao dung rộng lớn của bà. Bài học ấy được thể hiện qua lời căn dặn của bà với cháu:


“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”


Lời bà dặn đã cho thấy, đối với con cháu, bà là người mẹ và người bà rất bao dung, chu đáo. Ngày xưa bà chăm bố và giờ đây bà lại chăm cháu mà không hề than vãn, nề hà. Bà không muốn bố bận tâm về tuổi tác, sức khỏe của chính mình, càng không muốn bố đi chiến đấu nhưng bồn chồn, lo lắng về đứa con. Bà muốn bố có thể yên tâm, vững lòng làm nhiệm vụ. Trong cảnh ngộ đất nước có biến cố, gia đình bị chia li, bà là động lực của bố và là chỗ dựa cho cháu, đồng thời cũng là người truyền cho cháu niềm tin về một tương lai tươi sáng hơn. Bếp lửa cùng với những suy ngẫm và niềm nhớ mong gửi đến bà


Ở phần kết của bài thơ, vẫn là sự xuất hiện của hình ảnh bếp lửa, nhà thơ đã gửi gắm những suy tưởng và đặc biệt là tâm tình đến người bà một đời tần tảo sớm hôm. Người bà ấy dù đã “mấy chục năm rồi” nhưng “đến tận bây giờ” vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm bếp. Mỗi lần bà nhóm bếp, cháu lại được đón nhận từ bà rất nhiều điều khác chứ không chỉ là những món ăn ấm nóng:


“Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi, gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”


Trong bà luôn có một tình yêu thương dạt dào như ngọn lửa ấm nóng được ủ sẵn để củ sắn củ khoai bà đun trở nên ngọt bùi, để bát cơm chén xôi bà nấu dẻo thơm. Và tất cả những tình yêu thương chất chứa trong những món ngon đơn giản ấy giờ đây lại chứa một niềm tin dai dẳng để tiếp bước cho quá trình trưởng thành của cháu. Với niềm tin được tiếp sức từ tình yêu của bà, cháu dù có đi xa đến nơi “có ngọn khói trăm tàu”, “có lửa trăm nhà” và “niềm vui trăm ngả” nhưng làm sao cháu có thể quên được hình ảnh bếp lửa “kì lạ và thiêng liêng” của bà, làm sao quên được hình ảnh bà nhóm bếp mỗi sớm mai…


Trong tác phẩm, có rất nhiều lần tác giả nhắc đến hình ảnh bếp lửa và hiện diện bên bếp lửa là hình ảnh của người bà với biết bao vẻ đẹp của sự tảo tần, nhẫn nại và đầy yêu thương. Ngày ngày, bà có thói quen nhóm lên bếp lửa và đồng thời cũng nhen lên trong lòng cháu con và mọi người niềm vui, sự sống và tình yêu thương. Bà chính là hình ảnh của người nhóm lửa, giữ lửa và cũng là người truyền lửa cho mọi người. Đó là ngọn lửa của sự sống và niềm tin cho các thế hệ tiếp nối nhau.


Bếp lửa sẽ thấy thông qua việc xây dựng hình tượng này, bằng cảm xúc hồi tưởng, suy ngẫm và trên hình thức một bài thơ tự sự – trữ tình, bài thơ đã thể hiện nội dung mang tính triết lí sâu sắc: Tình yêu thương và lòng biết ơn dành cho bà chính là một biểu hiện cụ thể của tình yêu gia đình, quê hương. Tình yêu gia đình và quê hương được bồi đắp trong mỗi người lại chính là sự khởi đầu cho tình yêu đất nước, con người. Những tình yêu tốt đẹp ấy trong mỗi người là điều có thể nâng bước dắt dìu con người vững bước trên hành trình cuộc đời.


Tác phẩm mở ra với hình ảnh bếp lửa, diễn giải nội dung với rất nhiều lần hình ảnh bếp lửa xuất hiện và khép lại cùng với hình ảnh người bà bên bếp lửa. Có thể thấy, bếp lửa đã trở thành hình tượng, là điểm tựa để từ đó người cháu đi xa nhưng có những hồi tưởng về gia đình, bộc lộ những cảm xúc về tình bà cháu và đồng thời cũng thể hiện một tình yêu đất nước sâu kín.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy