Bài văn phân tích khổ 3 trong bài thơ Viếng lăng Bác số 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới – Người đã cống hiến trọn đời vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Bác ra đi khi bước sang tuổi 79, để lại biết bao nỗi thương nhớ và xót xa cho Tổ quốc. Có nhiều nhà thơ, nhà văn đã viết về Bác bằng niềm trân trọng, xót thương vô hạn, trong đó “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những bài thơ xuất sắc nhất. Bài thơ thể hiện cảm xúc của nhà thơ cũng như người dân Nam bộ ra viếng lăng Bác đều bồi hồi, xúc động.
Khi hòa vào dòng người cùng nhau vào viếng lăng Bác, khi nhìn thấy Bác nằm ngủ ngon thì cảm xúc của nhà thơ lại được đẩy lên cao, niềm cảm xúc đó được thể hiện rõ trong khổ 3 của bài thơ “viếng lăng Bác” của Viễn Phương:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền”
Viễn Phương nhìn thấy Bác và miêu tả bằng phép nói giảm, nói tránh. Câu thơ nói lên sự bình yên, thanh thản của Bác Hồ trong giấc ngủ ngàn thu, phải là một người sống có ích, hy sinh cho nước, cho dân, vì thế đến phút cuối người ra đi mà không hề ân hận, tiếc nuối. Vì thế dù đã về cõi vĩnh hằng, người say giấc ngủ ngàn thu mà chúng ta vẫn thấy được sự bình yên, thư thái, thanh thản. Bác vẫn chỉ “ngủ” mà thôi, ý nói là Bác vẫn còn sống mãi cùng chúng ta.
Nhìn vào giấc ngủ của Bác mà ta có thể liên tưởng tới một vầng ánh sáng dịu dàng bao phủ quanh nơi Bác nằm, vầng sáng ấy giúp nhà thơ liên tưởng tới vầng trăng. Vầng trăng vốn là người bạn tâm giao của Bác, trong suốt cuộc đời của mình, bác đã nhiều lần trò chuyện, tâm sự và làm thơ cùng với và về trăng, trăng là hình ảnh dịu nhẹ, thanh tịnh. Những vần thơ đẹp của Bác về vầng trăng vẫn nói cho chúng ta về tình yêu thiên nhiên, về tâm hồn thi sĩ, về niềm lạc quan, yêu đời, vui sống của Bác. Và khi Viễn Phương nhắc tới hình ảnh “vầng trăng” đã cho ta liên tưởng tới tâm hồn cao đẹp, lãng mạn và trong sáng của Bác Hồ.
Nhìn thấy Bác nỗi đau của nhà thơ không thể nào kìm nén:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Tác giả sử dụng hình ảnh “trời xanh” để nói tới sự bất tử của Bác. Con người ai cũng vậy đều phải theo quy luật sinh, lão, bệnh, tử nghĩa là ai được sinh ra, lớn lên và già đi, rồi đến lúc mất, đi vào thiên thu, cõi vĩnh hằng, Bác cũng không ngoại lệ. chúng ta ai cũng biết rằng Bác đã mất những hình ảnh của Bác vẫn sống mãi trong trái tim dân tộc Việt Nam, Bác vẫn luôn luôn song hành và dõi theo từng bước đi của dân tộc. Thế nhưng nhận thức là như vậy nhưng trái tim vẫn có lý lẽ riêng của nó, trái tim của nhà thơ vẫn nhói đau, “nhói” là sự biểu cảm như nỗi đau xót đến xé lòng của tác giả. Tác giả sử dụng từ ngữ biểu cảm, phép đối lập giữa lý trí và cảm xúc thể hiện một cách trực tiếp nỗi đau xót, niềm tiếc thương của nhà thơ, nỗi đau ấy bất chấp cả nhận thức của lý trí, của con tim và tưởng rằng dường như có thể xoa dịu được nhưng thật sự nó vẫn đau, nỗi đau không thể nào kìm nén được.
Giáo sư Trần Đình Sử cũng đã cảm nhận rất hay về hai câu thơ trên: “dù biết Bác vẫn sống vĩnh hằng như trời xanh, thì cũng không che giấu được sự thật mất mát, đau nhói con tim. Câu thơ nghe như một tiếng khóc nghẹn ngào”. Một con người có tâm hồn thanh bạch, sáng trong đã cống hiến cả cuộc đời mình cho nước non, cho dân tộc, khi người ra đi, niềm tiếc thương vô bờ bến đã khiến những người con như Viễn Phương ra thăm Bác mà trong lòng không day dứt nỗi đau, dù đã cố kìm nén nhưng đứng trước Bác thì nó cứ tự tuôn ra và không ngừng được. Vẫn biết Bác là trường tồn, là vĩnh cửu vậy sao vẫn đau nhói ở trong tim, ai cũng thế, nhà thơ cũng vậy dù đã dặn lòng mình không cho phép bản thân được khóc trước Bác nhưng thực tế không làm được.