Bài văn phân tích tác phẩm "Bài ca phong cảnh Hương Sơn" số 8
Chu Mạnh Trinh sinh 1862 và mất 1905, đỗ Tiến Sĩ 1892. Ông là nhà thơ tài hoa của thơ ca Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Ông thạo đủ cầm, kì, thi hoạ, giỏi về nghệ thuật kiến trúc. Năm 1905, ông đoạt giải nhất thơ Nôm trong cuộc thi vịnh Kiều tại Hưng Yên. Chu Mạnh Trinh là người có công trong việc trùng tu, tôn tạo chùa Thiên Trù- ngôi chùa nổi tiếng trong quần thể Hương Sơn. Ông có sáng tác thơ về Hương Sơn được đánh giá là hay nhất từ trước đến nay, đặc biệt qua bài: Bài ca phong cảnh Hương Sơn.
Bài hát nói này tương truyền được sáng tác năm 1903, trong dịp Chu Mạnh Trinh trùng tu chùa Thiên Trù ở Chùa Hương. Hương Sơn thường gọi là Chùa Hương là một quần thể thắng cảnh và kiến trúc nổi tiếng của huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây. Chùa Hương được mệnh danh là “Nam thiên đệ nhất động” (Động đẹp nhất trời Nam).
Lễ hội Chùa Hương được tổ chức vào mùa xuân từ tháng giêng đến tháng 3 âm lịch hàng năm. Bài thơ được sáng tác theo thể hát nói. Đó là một điệu của ca trù nên có người gọi chung là ca trù. Hát nói khá phổ biến ở các thế kỉ trước, nhất là ở cuối thế kỉ XVIII, nhưng đến thế kỉ XIX hát nói mới có nhiều thành tựu, gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh,… Từ lâu, chùa Hương đã là một nguồn thơ, nguồn cảm hứng sáng tạo của nhiều nghệ sĩ. Tản Đà có bài Vịnh chùa Hương:
Chùa Hương trời điểm lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu
Nguyễn Nhược Pháp có bài Chùa Hương nổi tiếng, Nguyễn Bính có bài Cô hái mơ; cả hai bài thơ này đều đã được phổ nhạc. Ngay Chu Mạnh Trinh cũng đã có ba bài thơ viết về chùa Hương, trong đó Hương Sơn phong cảnh ca được xem là bài hay nhất.
Bầu trời cảnh Bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.
Kìa non non, nước nước, mây mây,
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?
Bốn tiếng trong câu thơ đầu đọc liền nhau, cùng chung một nhịp như những bước chân cuối cùng đưa du khách lên tận đỉnh cao của Hương Sơn. Dừng lại. Đúng là Hương Sơn rồi. Vì đã có dấu hiệu đặc trưng đậm chất Hương Sơn mà không đâu có; đó là cảnh đẹp thiên nhiên hòa hợp trong không khí tâm linh: "Bầu trời cảnh Bụt". Ngẩng đầu lên : bầu trời, mình như đang ở trên trời, cách xa cõi nhân thế dưới kia; đưa mắt nhìn quanh: cảnh Bụt, bao bọc lấy mình là cõi phật, cõi Bụt, cõi thần tiên, cõi mà ta ao ước bấy lâu nay.
Cái thú đến với Hương Sơn là đến với “Bầu trời cảnh bụt” là sự ao ước của bao người trong đó có nhà thơ “Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay”. Cảnh vật hiện ra là cảnh của thiên nhiên và cảnh tôn giáo. Lòng ngưỡng mộ với cảnh phật cộng với cảm nhận tinh tế của một nhà thơ, Chu Mạnh Trinh đã bật lên câu hỏi “Đệ nhất động hỏi là đây có phải?”.
Giọng thơ khoan thai, nhẹ nhàng như ru, như mời mọc. Tâm hồn thi sĩ như bâng khuâng, bảng lảng trong tĩnh tại của tâm linh mà vẫn tỉnh táo lạ thường. Con người đến nơi này như rũ sạch mọi thứ phàm tục. Bốn câu thơ đầu tạo cảm xúc cho bài thơ hát nói.
Mười hai câu tiếp theo, tác giả tập trung miêu tả thể hiện những nét đẹp tiêu biểu của Hương Sơn: vẻ đẹp thần tiên siêu thoát, đạm màu thiền và vẻ đẹp kì thú tự nhiên mà hết sức gần gũi đối với con người. Ở khổ thơ thứ 2 tác giả đã chú ý thể hiện hình ảnh của cảnh vật và con người gợi không khí thần tiên:
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh.
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Bằng cách ấy, Chu Mạnh Trinh đã làm bật lên vẻ đẹp siêu thoát, thanh tịnh, mang đậm màu thiền của cảnh trí Hương Sơn. Hình ảnh, âm thanh là những chất liệu chính để gợi cảnh. Đó là hình ảnh của chim, cá, của khách tang hải. Đó là âm thanh thỏ thẻ của tiếng chim mổ vào trái mơ, là tiếng kinh niệm phật, tiếng chuông chùa (Vẳng bên tai một tiếng chày kình)…
Những hình ảnh và âm thanh đó giúp người đọc cảm nhận một cách rõ ràng hơn vẻ đẹp thanh tịnh, siêu thoát, hết sức thi vị của Hương Sơn. Các từ láy: thỏ thẻ, lững lờ gợi ra hình ảnh sinh động về cảnh vật: chim mổ nhẹ vào trái cây, cá gần như bất động giữa làn nước trong. Thủ pháp nhân hoá được sử dụng trong hai câu thơ này đến cho khoái cảm nghệ thuật rất thú vị.
Trong cảm nhận của tác giả, hình ảnh chim ăm trái giống như động tác cúng vái của phật tử. Con cái bơi lững lờ giống như đang chìm đắm vào tiếng kinh niệm Phật. Trong thế giới ấy, các con vật cũng mang dáng dấp của những tín đồ nhà Phật. Ở hai khổ thơ tiếp, tác giả tập trung làm rõ vẻ kì thú tự nhiên mà cũng rất gần gũi thân thuộc của cảnh sắc Hương Sơn:
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình:
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
Từ những cảnh sắc của tự nhiên, đất trời, nhà thơ Chu Mạnh Chinh đã liệt kê những địa điểm nổi tiếng của địa danh Hương Sơn, đó chính là suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, am Phật Tích, động Tuyết Quỳnh, đó đều là những địa điểm đẹp, hấp dẫn tạo nên nét đẹp của Hương Sơn. Nhà thơ đã điệp ngữ từ “này” vừa thể hiện được cảm xúc nồng nhiệt đồng thời cũng thể hiện được sự tự hào trước những địa điểm ấy.
Trong các hang động, tạo hóa đã tạo cho Hương Sơn một vẻ đẹp hiếm thấy “Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình”, đó là những hình thù độc đáo do bàn tay của tạo hóa chế tác lên, những viên đá thạch nhũ trong những hang động ấy cũng mang vẻ đẹp độc đáo, khác thường “Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Chập chờn mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt?
Hang đá Hương Sơn không chỉ đẹp bởi sự điểm xuyết của những viên đá ngũ sắc, không chỉ ở những hình thù độc đáo, kì dị mà còn có sự giao lưu với thế giới bên ngoài, tuy là hang nhưng sự thông thoáng của mặt hang còn làm cho ánh trăng chiếu rọi “Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt”, và dưới ánh trăng ấy, cảnh vật không tồn tại độc lập mà nó đan lồng với ánh trăng, tạo nên một vẻ đẹp độc đáo.
Những lỗi vào, đường đi vào vào hang cũng không phải những con đường thẳng tắp mà là những lối đi uốn khúc, mà trong cảm nhận của nhà thơ thì nó như một lối uốn thang mây “Chập chờn mấy lối uốn thang mây”.
Tác giả sử dụng những từ tạo hình (phương thức láy): Long lanh, thăm thẳm, gập ghềnh, kết hợp với cảm hứng khoan khoái, ngây ngất của nhân vật trữ tình. Cách miêu tả làm cho bức tranh Hương Sơn nên thơ nên hoạ. Đó là sản phẩm của một cảm hứng thẩm mĩ cao độ. Yêu cái đẹp của cảnh vật đã gắn liền với lòng yêu quê hương đất nước.
Hai câu thơ: "Chừng giang sơn… sắp đặt" là những câu hỏi liên tiếp thể hiện tâm trạng say đắm trước cảnh bầu trời cảnh bụt. Ở đây, tình yêu cảnh Hương Sơn hòa vào với tình yêu lớn: tình yêu giang sơn, tổ quốc. Ca hát Hương Sơn tuyệt mĩ cũng là ca hát Tổ quốc ngàn đời tươi đẹp mà ta yêu. Bài ca kết lại trong sự hòa quyện cảm hứng đầy thành kính, trang nghiêm đối với đạo Phật và cảm hứng yêu quý cảnh đẹp Hương Sơn đến độ mê đắm:
Lần tràng hạt niệm “Nam vô Phật”,
Cửa từ bi công đức biết là bao.
Càng trông phong cảnh càng yêu!
Cảnh vật mang màu sắc tôn giáo (đạo phật) với tất cả tấm lòng ngưỡng mộ trang nghiêm nhưng gắn kết với yêu cái đẹp của thiên nhiên: “Thỏ thẻ rừng mai”, “Lững lờ khe Yến”, “Lồng bóng nguyệt”, “Uốn thang mây". Lời kết của bài thơ nhưng lại có sức vang ngân tưởng chừng không dứt trong lòng thi nhân.
Nó còn ngân nga mãi trong lòng người đọc xưa, cả hôm nay và mai sau để ngợi ca những con người góp phần làm cho Hương Sơn thêm đẹp, thể hiện tình yêu say đắm đối với non sông đất nước. Sự hòa quyện giữa cảm hứng tôn giáo trang nghiêm này với lòng yêu quê hương đất nước là giá trị nhân bản cao đẹp trong tâm hồn thi nhân. Nó trọn tạo ra sự thanh cao, tinh khiết, lâng lâng của hồn người. Cảm hứng tôn giáo không phải là sự mê tín dị đoan mà là một nhu cầu tinh thần mang tính người của một bút pháp tài hoa.
Hương Sơn phong cảnh ca ghi nhận một bút pháp, một giọng thơ, một năng lực gợi cảm, gợi tình đầy tài hoa của một tấm lòng yêu cái đẹp của thiên nhiên đất nước. Bài thơ đã miêu tả thành công cảnh vật nên thơ, nên hoạ của Hương Sơn. Đồng thời thể hiện sự hòa quyện giữa cảm hứng tôn giáo đầy thành kính, trang nghiêm với tình yêu giang sơn đất nước tươi đẹp.