Bài văn phân tích tác phẩm "Một thời đại trong thi ca" số 4
Hoài Thanh là một nhà phê bình được đánh giá là một nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học xuất sắc nhất. Cuốn sách nổi tiếng “một thời đại trong thi ca” là tiểu luận mở đầu cho cuốn Thi nhân Việt Nam. Đó cũng chính là một trong những công trình xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của tác giả. Và cũng dễ nhận thấy được nội dung của cuốn sách này đề cập đến rất nhiều vấn đề như nguồn gốc của thơ mới, cuộc tranh luận và có cả những sự so sánh giữa thơ mới- thơ cũ. Trong tác phẩm đó cũng chính là một vài nét về con đường phát triển Thơ mới, đặc điểm về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới. Ta có thể nhận thấy được đó chính là cái tinh thần cốt lõi của Thơ mới và hình ảnh cái tôi trong mỗi tác phẩm. Và ở mỗi góc cạnh của vấn đề, tác giả lại có những nhận định với những khía cạnh rất riêng kèm theo những ý kiến sắc sảo và tinh tế biết bao nhiêu.
Và ấn tượng với đoạn mở đầu cho đoạn trích thì tác giả đưa ra để xác định cho thơ mới. Ta như thấy được theo như Hoài Thanh thì muốn hiểu được thời đại thi ca thì phải có sự so sánh. Và cái sự so sánh này đường như cũng đã chỉ ra các cách xác định của tác giả luôn mang tính khoa học bởi vì chỉ những câu hay mới được trở thành thước đo để tính giá trị sản phẩm mà thôi. Điều thứ hai đáng nói ở đây có lẽ chính là phải như căn cứ vào tổng thể chứ không thể nhìn vào tiểu tiết. Nghĩa là phải dựa vào cái chung nhất sau đó mới có thể nói những cái riêng biệt và đơn lẻ ra để có thể tổng hợp và đánh giá sao cho chân thực nhất.
Và một điều đáng nói ở đây có lẽ chính là tinh thần thơ mới là sự khẳng định của cái “tôi”. Cũng như là để khẳng định được tinh thần Thơ mới tác giả đã đưa ra những biện luận cụ thể về nội dung của chữ “ tôi”trong quá trình phân biệt chữ “tôi” với “ta”. Ta như có thể thấy được chính những nét chung của thơ cũ là thiên về cái “ta”, thiên về ý thức cộng đồng và để làm rõ ý thức này. Đặc biệt hơn nữa là chính Hoài Thanh đã nhìn trong lối sống nói chung và nhìn trong văn học nói riêng”. Ta như thấy được chính xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia nhỏ thì gia đình. Và khi nói về cá nhân thì dường như chsnh cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Như vậy, khi mà nhìn qua tất cả thì thơ cũ gồm cả chữ” ta”, họ cầu cứu đoàn thể để chống lại sự cô đơn như thật lạc long biết bao nhiêu.
Thơ mới dường như cũng đã như lại nghiêng về “cái tôi” và “ý thức cá nhân ,“dựa trên đại thể tất cả tinh thần thời nay hay chính là một tinh thần của thơ mới gồm hai trong chữ “tôi”- ý thức cá nhân của mỗi người” và có thể khẳng định rằng khi thơ mới xuất hiện nó mang một quan niệm chưa từng thấy ở xứ sở này “ đó là quan niệm cá nhân”.
Thứ ba đáng nói ở đây cũng chính là biểu hiện và ý nghĩa của cái tôi. Đầu tiên có thể nói đến chính là sự xuất hiện và tiếp nhận của cái “tôi”. Trước tiên khi cái tôi xuất hiện trên văn đàm thì còn có rất nhiều sự bỡ ngỡ. Nó dường như thật là giống như một kẻ lạc loài ở nơi đất khách bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu biết bao nhiêu. Cũng chính vì chúng ta đã quen nhìn cuộc sống trong mình có cái “ta”. Bây giờ, chính cái “tôi” nó như lại xuất hiện thì làm sao lại tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Nhưng có thể nói cái “tôi” theo thời gian, chữ “tôi” đó dần dần được chấp nhận và đã làm cho nó đã mất dần đi vẻ bỡ ngỡ của ban đầu.
Cuối cùng ta cũng như đã thấy được chính tác giả đã chỉ ra một hướng lớn trong phong trào thơ mới. Đi sâu vào cái “tôi” kia thì dường như đời của chúng ta nằm trong vòng cái “tôi”, mất bề rộng ta lại đi tìm bề sâu”. “mất bề rộng” là không còn thiên về cái chung một sợi dây liên hệ như trước nữa. Và đó chính là cái cộng đồng của thơ cũ, còn đi tìm bề sâu chính là đi tìm cái tôi, đi sâu vào ý thức cá nhân của mỗi người. Ta có thể thấy được có lẽ chính tâm hồn của các nhà thơ thu mình trong chữ “tôi” nên luôn cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo cho nên thường gọi đó là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu quả đúng là một nhà thơ đầy đủ nhất của thời đại ấy vậy mà chỉ nói tới cái cô đơn, khổ sở, thảm hại của cái ta trong những vần thơ của mình. Từ đó Hoài Thanh đã khái quát rất hay là“ chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà nhất là xôn xao đến thế”.
Có thể thấy được chính cách dẫn dắt và lập luận của tác giả càng trở nên chặt chẽ hơn khi đưa ra các ví dụ cụ thể, cũng với sự so sánh liên tưởng và nhất là dẫn ra những câu chuyện về Cao Bá Nha, của cô Phụ trên bến Cầm Dương có tính chất như để làm đòn bẩy để xác định nỗi thương không nơi nương tựa của những nhà thơ mới. Thế đấy, ta như thấy được những nỗi buồn của thơ mới được hiện lên như một bi kịch diễn ra ngấm ngầm như âm ỉ nhưng không lúc nào thôi mạnh mẽ cả.
Qủa thực chính bài tiểu luận có tính chặt chẽ, lập luận rất khoa học, lời văn của Hoài Thanh vừa sắc sảo, vừa rất tinh tế với giọng văn của người trong cuộc. Và như cùng những chia sẻ đúng như quan niệm thi nhân như đã “ lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Đặc biệt hơn nữa ta có thể thấy ở đây đó chính là những khái niệm đó vốn khô khan, qua những trình bày, giải thích của tác giả đã được chuyển thành những hình ảnh biểu cảm. Các câu văn dường như cũng đã được cân chỉnh, hợp lí với giọng văn cuốn hút người đọc. Có lẽ vì chính điều này đã mang được tính nhạc cho bài văn. Cách dẫn dắt đoạn văn cửa Hoài Thanh ta như thất được thật hợp lí, logic ,ngôn ngữ đặc sắc, dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích là một trong những điều mà hiếm có bài phê bình nào có thể làm được.
Đoạn trích dường như đã đi sâu cũng như thật tập trung giải thích cho sự ra đời và phát triển của thơ mới. Qua đó, chúng ta cũng có thể nhìn thấy thái độ trân trọng cổ vũ của tác giả, đồng thời cũng đã như cho thấy sự xuất hiện ý thức cá nhân trong thơ ca và tấm lòng của nhà thơ mới đối với toàn dân tộc ta vậy.