Bài văn tham khảo số 7
Hai giờ sáng, đang mơ màng trong giấc ngủ với giấc mơ nhớ về Quảng Ninh yêu dấu thì bạn cùng phòng ngủ mê nói thành lời khiến tôi tỉnh dậy, không ngủ được nữa. Nằm suy nghĩ về giấc mơ của mình, tôi men theo kí ức nhớ về bà ngoại của tôi - người bà hằng đêm vẫn ru tôi ngủ đã mất cách đây chục năm. Tôi nhớ bà và trong chốc lát, đôi mắt ướt nhòe vì chỉ được gặp bà qua bức ảnh thờ. Cứ mơ hồ suy nghĩ, tôi nhận ra có người cũng yêu bà như mình, cũng có thể đồng cảm, đó chính là nhà thơ Bằng Việt. Trong tác phẩm “Bếp lửa”, tác giả Bằng Việt cũng đã viết dòng hoài niệm đẹp đẽ của người cháu về tuổi thơ sống bên bà:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi!Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Với những ai yêu thích Bằng Việt thì khi nhắc đến ông, người ta sẽ nghĩ ngay đến những trang thơ có giọng điệu tâm tình, mượt mà, trong trẻo, tinh tế, vừa sâu lắng vừa mang tính triết luận, suy tư. Với sở trường khai thác sức biểu cảm của những kỉ niệm, kí ức và ước mơ tuổi trẻ, Bằng Việt đã thành công ở rất nhiều tác phẩm, ghi dấu ấn khó phai trên thi đàn Việt Nam và trong lòng bạn đọc. Bài thơ “Bếp lửa” là sáng tác đầu tay của ông đã thổi một nguồn sống mới, đánh thức những năm tháng tuổi thơ trong lòng hàng triệu độc giả. Khi du học ở Liên Xô, ông từng tâm sự rằng: “Những năm đầu theo học Luật tại đây tôi nhớ nhà kinh khủng. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi sớm dậy đi học, tôi hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai củ sắn cho cả nhà.” Và cứ thế, từng dòng “Bếp lửa” được cất lên. Đây là thi phẩm đầy xúc động gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà, với gia đình, với quê hương, đất nước.
Chỉ ngắn gọn với mười một câu thơ nhưng Bằng Việt đã khái quát được những kỉ niệm đẹp đẽ cháu ở bên bà khi bé. Đoạn thơ đầy xúc động nhắc lại những kỉ niệm êm đềm, sâu sắc một thời gian khổ “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”. Tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng của bà. Tám năm- một quãng thời gian không dài nhưng cũng chẳng ngắn đủ cho cháu cảm nhận được tình yêu thương của bà dành cho cháu. Một cuộc sống đầy ắp khó khăn, khổ cực nhưng đầy tình yêu thương từ bà. Bà biết không, đó chính là cuộc sống cháu mong muốn bởi cháu được ở với bà, chơi với bà, tâm sự với bà. Người bà vẫn cứ như vậy, vẫn cứ tần tảo, cứ trở đi trở lại trong văn học Việt Nam. Trong tác phẩm “Đò lèn”, nhà thơ Nguyễn Duy cũng miêu tả hình ảnh người bà lam lũ, vất vả, chịu thương chịu khó:
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
Bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan
Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững đêm hàn.”
Trong suốt quãng thời gian sống với bà, tu hú chính là nhân chứng chứng kiến những kỉ niệm của bà và cháu. Tiếng chim tu hú từ xa xăm vẳng lại có thể nghe thấy được, chứng tỏ âm thanh đó đã bay qua những không gian mênh mông, vắng lặng. Âm thanh ấy không làm cho cảnh vật vui lên mà càng gợi lên cảm giác vắng vẻ, quạnh hiu. Tác giả như tách khỏi dòng hồi tưởng, như đang trò chuyện cùng bà: Bà còn nhớ không bà? Bởi chỉ có hai bà cháu mới hiểu hết ý nghĩa của âm thanh ấy. Tiếng chim tu hú phải da diết, khắc khoải lắm, nên cháu khó quên và bồi hồi xúc động khi nhớ lại. Có lẽ khi tiếng chim tu hú từ xa vọng lại, hai bà cháu mới cảm nhận rõ rệt nhất sự thiếu vắng trong ngôi nhà của mình. Đứa trẻ nào không khao khát tiếng nói của cha, hơi ấm của mẹ? Người bà nào chẳng ước mong tuổi già có con cháu quây quần bên cạnh? Vì hoàn cảnh chiến đấu, bố mẹ công tác xa không về, bà nuôi cháu trong trống vắng, quạnh hiu. Nhà thơ Anh Thơ cũng từng đồng điệu với những cảm xúc ấy:
“Con đi dài thương nhớ
Mười năm chưa về quê
Tu hú ơi tu hú
Kêu chi hoài vườn xanh?”
Nỗi lòng của chim tu hú “kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” đâu có khác gì với nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết, âm vang trong tim người đọc. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình thủ thỉ, chậm rãi đầy nhung nhớ đã đưa ta về với tuổi thơ sống bên bà và đầy ắp tình bà cháu của tác giả.
Khi kháng chiến bùng nổ, bố và mẹ đều không có ở bên, Bằng Việt đã vẽ lên hình ảnh của bà, người bà đáng kính, đáng yêu suốt những năm dài khó nhọc đã chăm sóc, dạy dỗ cháu nên người:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.”
Câu thơ gồm hai vế tiểu đối cân xứng với nhịp thơ êm ái, hài hòa. “bà”, “cháu” được nhắc lại nhiều lần “Cháu ở cùng bà…bà bảo…bà dạy..bà chăm cháu học”, âm điệu quấn quýt như sự gắn bó giữa hai tâm hồn bà - cháu trong tình yêu thương. Cháu lớn khôn trong vòng tay yêu thương, chăm sóc, che chở của bà. Bà là người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người. Bà không chỉ là bà mà như một người bố, người mẹ, người bạn tri âm tri kỉ, là chỗ dựa vững chắc để cháu chia sẻ, tâm sự, để cháu tựa vào mỗi khi mệt mỏi. Một loạt các từ ngữ “bà bảo”, "bà dạy”, “bà chăm” vừa diễn tả một cách sâu sắc tình thương bao la, sự chăm chút của bà dành cho cháu, vừa thể hiện lòng biết ơn của cháu với bà. Bà là chỗ dựa, bao bọc, chở che cho cháu suốt đời. Bà đã thức khuya dậy sớm “nhóm lửa” làm cho tâm hồn thơ bé của cháu sống trong cảnh xa mẹ cha trở nên ấm áp. Ngọn lửa mà bà đã nhóm lên từ “bếp lửa” ấy đã sưởi ấm và soi sáng cuộc đời đi lên phía trước của cháu. Không chỉ vậy, bà còn “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”. Bà kể những câu chuyện đó để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc.
Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên. Nguyễn Duy khi miêu tả về bà cũng đã viết:
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư- thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương thầm.”
Bằng Việt cũng như Nguyễn Duy đều tôn trọng, yêu quý người bà tần tảo, luôn hiếu thảo, ngoan ngoãn biết vâng lời bà. Tình yêu thương ấm áp, sâu lắng của bà cứ vấn vương trong tâm trí cháu cho đến tận bây giờ khi đã xa bà. Tình yêu và kính trọng bà của tác giả được thể hiện thật chân thành và sâu sắc: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc, chở che dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ - kỉ niệm gắn bó với tiếng chim tu hú.
Mang nặng công ơn của bà, trong đáy lòng cháu - nhà thơ - hình ảnh của bà hiện lên chẳng bao giờ mờ phai. Tiếng kêu của con chim tu hú với hình ảnh của bà kết hợp hài hòa, được diễn tả dưới hình thức nghệ thuật cảm thán và câu hỏi tu từ đã khắc sâu nỗi nhớ thương da diết, nỗi bồn chồn trong tâm tưởng và kí ức:
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
“Tu hú ơi!Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa.”
Âm điệu của vần thơ nhẹ nhàng, tha thiết, sâu lắng, gợi lên những rung cảm man mác, bâng khuâng. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Phải chăng đó là tiếng đồng vọng của trời đất để an ủi, chia sẻ với cuộc đời lam lũ của bà? Hình ảnh chim tu hú có sự tương đồng với cảnh ngộ của cháu: xa người thân côi cút nhưng cháu cũng vẫn may mắn hơn tu hú bởi tu hú mãi đơn côi vì thiêu bà còn cháu có bà để chở che, đùm bọc. Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” mới thấm thía, xót xa làm sao!. Nó diễn tả nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà. Những câu thơ giống như lời đối thoại tâm tình của và bà trò chuyện trong tâm tưởng. Tất cả như lời giãi bày, tâm sự của cháu dành cho bà. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến bài thơ như phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.
Bằng thể thơ tám chữ có giọng điệu phù hợp với cảm xúc và suy ngẫm cùng với những hình ảnh quen thuộc: hình ảnh bếp lửa, tiếng chim tu hú,…vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang khả năng liên tưởng và biện pháp tu từ đạt hiệu quả cao: liệt kê, câu cảm thán, câu hỏi tu từ, cảm xúc bộc lộ trực tiếp, ẩn dụ,... kết hợp biểu cảm, tự sự, tác giả Bằng Việt đã viết lên đoạn thơ thể hiện cảm xúc của cháu về những năm tháng tuổi thơ. Đồng thời, đoạn trích chứa đựng tư tưởng cao đẹp: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
Gấp lại trang sách, ta không thể nào quên được hình ảnh người bà cùng tiếng chim tu hú và mùi khói buổi chiều quê. Đoạn trích của Bằng Việt chẳng khác nào lời ru của mẹ, chuyện kể của bà,..từ những năm tháng tuổi thơ vọng về. Những tình cảm ấy được diễn tả rất chân thực qua từng lời kể của nhà thơ. Và quay trở lại với mình, với tình cảm dành cho bà, tôi cũng sẽ chẳng thể nào quên được những ngày tháng chơi đùa bên bà dưới hiên nhà. Bà ơi! Bà mãi là người cháu yêu quý nhất, cháu sẽ mãi mãi không bao giờ quên bà. Chúng ta được sống trong một gia đình đầy đủ thì hãy tận hưởng và tận hiếu với ông bà, cha mẹ để sau này không hối tiếc, không hối hận vì những gì đã qua các bạn nhé.