Sông Hương dưới góc nhìn lịch sử
“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt, Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được…” Huế là nơi con người và thiên nhiên hòa quyện với nhau là một, nếu đã đến Huế chắc hẳn mỗi chúng ta sẽ cảm nhận được điều này. Và có ai về xứ Huế mộng mơ mà không một lần ngắm nhìn sông Hương xuôi dòng. Con sông đã làm nên nét đặc trưng của xứ Huế. Chính vì thế mà từ bao giờ nó đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho văn chương nói riêng và nghệ thuật nói chung. Một trong những tác phẩm nổi tiếng về sông Hương chính là tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ngoài vẻ đẹp thơ mộng, dịu dàng mà nó mang trong mình thì đây còn là một dòng sông gắn với lịch sử đất nước và văn hóa xứ Huế nói riêng.
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế. Quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, song gần như suốt cuộc đời, ông gắn bó với xứ Huế yêu thương. Chính vì ông là một con người dành nhiều tình cảm cho xứ Huế nên tâm hồn nhà văn thấm đẫm đặc trưng của văn hóa Huế. Năm 1960, ông tốt nghiệp ban Việt – Hán Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, tốt nghiệp khoa Triết – Văn Đại học Huế. Sau đó, ông về dạy tại trường Quốc học Huế. Năm 1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát li lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ, ông đã giữ các chức vụ: Tổng thư kí Hội Văn học nghệ thuật Trị Thiên – Huế. Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên.
Trong mối quan hệ với lịch sử đất nước, sông Hương là dòng “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” theo dòng thời gian sông Hương là chứng nhân lịch sử, nhà văn đã đưa người đọc trở về với quá khứ gian truân mà hào hùng của đất nước để cảm nhận được hết nét đẹp này của sông Hương. Nó chính là một ải Chi Lăng ở phía Nam Tổ quốc đã bao lần làm quân thù khiếp sợ. Châu Hóa giữ vị trí chiến lược trong việc trấn giữ biên cương của Tổ quốc Đại Việt. Lịch sử đã gọi nó là Vạn Lí Trường Thành của Phương Nam. Trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương là dòng Linh Giang âm vang lịch sử, là dòng sông biên thùy từng chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới của Tổ quốc. Thế kỉ XVIII nó soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa. Thế kỉ XX, sông Hương đi vào Cách mạng tháng tám bằng những chiến công rung chuyển để rồi sau đó nó tiếp tục có mặt trong những năm tháng bi hùng nhất của lịch sử đất nước với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt. Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua bao thăng trầm lịch sử. Khi hòa bình lặp lại, sông Hương đã trở về cuộc sống đời thường khi đó nó là một người con gái dịu dàng của đất nước. Xuyên suốt trang văn của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra vẻ đẹp hùng tráng của dòng Hương Giang. Ông đã hiểu một cách thấu đáo, sông Hương từ cội nguồn của nó cho đến khi đổ ra biển Đông đều gắn với lịch sử dựng và giữ nước oai hùng của dân tộc.
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chìm trong vẽ đẹp của Hương Giang để phát hiện ra cái nôi văn hóa của kinh thành Huế đã được khai sinh.Từ đây bằng vốn kiến thức am hiểu sâu sắc về nhiều lĩnh vực âm nhạc, thi ca văn hóa truyền thống, ông khẳng định ” toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này” từ nhã nhạc cung đình, ca Huế, cho đến những điệu hò dân gian, mái nhì, mái đẩy. Ai đã từng nghe ca Huế trên sông Hương mới có thể cảm nhận hết nét thơ mộng, lãng mạn của hồn điệu dân gian xứ Huế, trong trường liên tưởng của mình tác giả phát hiện ra mối quan hệ giữa những bản nhạc xưa của Huế với truyện Kiều của Nguyễn Du để thấy được sự giao thoa tương đồng giữa thơ và nhạc.
Vẻ đẹp của sông Hương không được tô đậm, nếu nhà văn quên đi một dòng sông thi ca. Dòng sông đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ và họ chưa bao giờ lặp lại mình. Khi nhìn vẻ đẹp của Hương Giang nó vẫn mãi mãi là nỗi hoài vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới, thi sĩ Tản Đà gọi dòng sông xanh biếc ấy là ” dòng sông trắng, lá cây xanh”. Từ một Linh Giang mơ màng sông Hương còn bảng lảng nỗi sầu vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan. Đó còn là hình ảnh dòng sông mang tráng khí cao người anh hùng Cao Bá Quát “Trường giang như kiếm dựng thanh niên”. Suy cho cùng vẻ đẹp phong phú biến ảo của Hương giang đã chảy qua những tâm hồn, những trang thơ, trang văn của người nghệ sĩ làm phong phú thêm mạch nguồn thi ca dân tộc.
Có người đã từng nói rằng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường rất uyên bác với vốn hiểu biết phong phú về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật xứ Huế. Đó là sự uyên bác của một nhà Huế học. Nhận xét đó rất đúng với nhà văn, ông đã mang đến cho người đọc những kiến thức rất mới mẽ, sâu sắc về văn học Huế. Có lẽ vì yêu mến dòng sông Hương nên vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên ấy đã khơi gợi nguồn cảm hứng để những nghệ nhân xưa may trang phục truyền thống của cô dâu Huế theo đúng màu sương khói trên sông Hương. Họ kết hợp loại vải vằn thưa màu xanh chàm với màu đỏ để làm nên một màu tím nhân loại của xứ Huế. Sự phát hiện ấy cho thấy sự am tường về văn hóa Huế đồng thời lối viết rất độc đáo, sáng tạo, bày tỏ được cảm xúc mến thương dành cho sông Hương và xứ Huế.
Chất trí tuệ và chất thơ trong bài kí là biểu hiện của một phong cách văn xuôi vừa tài hoa nghệ sĩ vừa uyên bác. Ở bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông có sự hòa hợp tương giao linh ứng giữa cảnh sắc, lịch sử, văn hóa Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung động, vô cùng nhạy cảm. Qua bài kí, ta có thể cảm nhận được tấm lòng của nhà văn dành cho thiên nhiên, cho đất Huế, sâu xa hơn là tấm lòng cho quê hương đất nước, thiết tha với những giá trị cổ xưa của dân tộc. Đó là những giá trị mà cuộc sống hôm nay vẫn cần đến. Dòng sông Hương không chỉ bồi đắp nên một nền văn hóa cố đô mà còn làm màu mỡ thêm cho cuộc sống của mỗi chúng ta hiện tại.