Top 9 Bài văn cảm nhận bài thơ "Nói với con" của Y Phương hay nhất

Hà Ngô 1305 0 Báo lỗi

Bài thơ " Nói với con" của Y Phương là một trong những tác phẩm nói về tình cảm gia đình thiêng liêng. Với giọng điệu thổ cẩm ngọt ngào, bài thơ mượn lời người ... xem thêm...

  1. Y Phương là một nhà thơ người dân tộc Tày với một phong cách sáng tác thơ cụ thể, chân thật, mạnh mẽ, trong sáng và mang đậm lối tư duy của người dân tộc niềm núi. "Nói với con’’. Sáng tác năm 1980 in trong tập "Thơ Việt Nam năm 1945- 1985’’. Bài thơ gợi nhắc về tình cảm gia đình đầm ấm yêu thương, về vẻ đẹp tâm hồn của một người dân tộc miền núi với sức sống cần cù, mạnh mẽ và ý chí nghị lực vươn lên trong cuộc sống còn những khó khăn gian khổ. Trước hết là lời tâm tình của người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng.


    “Chân phải bước tới cha
    Chân trái bước tới mẹ
    Một bước chạm tiếng nói
    Hai bước tới tiếng cười”


    Bốn câu thơ mở ra không khí của một gia đình quấn quýt, đầm ấm, ngập tràn tình thương yêu có hình ảnh của đứa con nhỏ đang độ tuổi tập đi tập nói với hình ảnh của người cha người mẹ. Mỗi bước đi, giọng nói, tiếng cười của con đều có sự nâng niu, chăm sóc bảo bọc của cha mẹ. Cha mẹ mừng vui khi con đang khôn lớn từng ngày. Với những hình ảnh thơ mộc mạc, cụ thể, chân thực lời tâm tình của người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng. Con đang lớn dần lên từng ngày, gia đình là cái nôi ấm êm để con khôn lớn trưởng thành.


    “Người đồng mình yêu lắm con ơi
    Đan lờ cài nan hoa
    Vách nhà ken câu hát”


    Ba câu thơ là cuộc sống lao động cần cù chăm chỉ nhưng nên thơ của người đồng mình. Người đồng mình là người làng mình, bản mình, dân tộc mình gắn bó với cụm từ “yêu lắm con ơi” bộ lộ tình cảm yêu thương gắn bó của những người trong cùng một dân tộc. Công việc hàng ngày của những người đồng mình họ đan lờ để đánh cá ken vách để dựng nhà. Đó là những người dân quê chăm chỉ mà cần cù. Những hình ảnh “cài nan hoa. ken câu vách” là những hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Dưới bàn tay lao động của người thợ tài hoa những nan nứa,nan trúc, nan tre bỗng hóa thành những nan hoa. Vách nhà không chỉ được ken bằng những nguyên liệu bình thường như tre, nứa, gỗ mà ở đây được ken bằng những câu hát sli, hát lượn, hát then của người dân tộc mà phải chăng nó còn được ken cả bằng những bông hoa rừng thơm ngát.


    “Rừng cho hoa
    Con đường cho những tấm lòng”


    Lời tâm tình tha thiết ngọt ngào của người cha nói với con về sự ban tặng hào phóng của rừng. Điệp từ cho kết hợp với nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ “con đường và tấm lòng” thiên nhiên nghĩa tình thơ mộng ban tặng cho con người những gì đẹp đẽ tinh túy nhất. Đó chính là con đường lên bản, con đường xuống làng, con đường đi đến khắp mọi miền Tổ quốc. Và phải chăng đó còn là con đường xây dựng quê hương đất nước ngày một giàu đẹp ấm no, còn “tấm lòng” phải chăng là tâm hồn và lối sống chân chất của người đồng mình. Những câu thơ tiếp theo là lời cha dặn con về những phẩm chất cao quý của người đồng mình


    “Người đồng mình thương lắm con ơi
    Cao đo nỗi buồn
    Xa nuôi chí lớn”


    Người đồng mình gắn với cụm từ “thương lắm con ơi” thể hiện tình thương của những người trong cùng một dân tộc mặc dù cuộc sống còn muôn vàn khó khăn. Hai câu thơ tiếp theo đã đúc kết một phương châm sống, một thái độ sống bền gan vững chí trước những khó khăn của cuộc sống. Với lối tư duy hình ảnh cụ thể mộc mạc lấy độ cao của ngọn núi để đo nỗi buồn lấy độ dài độ xa của con đường để đo chí lớn khát vọng lời tâm tình của người cha như khẳng định giá trị cao quý của những người đồng mình.


    “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
    Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
    Sống trong thung không chê thung nghèo đói
    Sống như sông như suối
    Lên thác xuống ghềnh”


    Đặt từ “sống” ở đầu ba câu liên tiếp cùng điệp cấu trúc câu nhằm nhấn mạnh thái độ sống phong cách sống. Điệp từ “không chê” cùng hình ảnh ẩn dụ “đá gập ghềnh - thung lung nghèo” gợi ra cuộc sống khó khăn của những người miền núi, cha dặn con không được chê cuộc sống ấy mà phải vững lòng trước những thử thách. Phép so sánh “sống như sông như suối” cũng góp phần chỉ phong cách của người đồng mình là sự hồn nhiên, mạnh mẽ, phóng khoáng, giản dị như cây cỏ sông suối. Dù cuộc sống có biết bao trắc trở thể hiện qua thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” lời cha dặn con là phải kiên cường vượt qua không được chê vì người đồng mình rất giàu ý chí và nghị lực.


    “Người đồng mình thô sơ da thịt
    Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
    Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
    Còn quê hương thì làm phong tục”


    Người đồng mình gắn với cụm từ “thô sơ da thịt” chỉ cốt cách giản dị mộc mạc thật thà chất phác. Họ không hề sống tầm thường nhỏ bé mà luôn ngẩng cao đầu trước thử thách khó khăn. Người đồng mình bằng bàn tay sức lực sự cần cù đã “kê cao quê hương” với một niềm tin và khát vọng lớn lao. Họ chính là những người sáng tạo và lưu truyền mãi những phong tục của quê hương lấy đó làm chỗ dựa tinh thần. Những câu thơ cuối cùng là lời tâm tình tha thiết của cha dành cho con.


    “Con ơi tuy thô sơ da thịt
    Lên đường
    Không bao giờ nhỏ bé được
    Nghe con.”


    Hai chữ con ơi cất lên ngọt ngào ấm áp tình cha một lần nữa cụm từ “thô sơ da thịt” được nhắc lại. Lời cha dặn con lúc trưởng thành dù có đi đâu làm gì cũng không bao giờ được nhỏ bé mà phải luôn ngẩng cao đầu. Hai chữ “nghe con” khép lại bài thơ mở ra tình thương như trời biển của cha dành cho con khiến lời dặn của cha càng thêm sâu sắc và thiêng liêng.


    Bằng cách nói xúc động của riêng mình bài thơ đã chạm đến trái tim của người đọc một cách sâu sắc.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

  2. "Quê hương là gì hở mẹ
    Mà cô giáo dạy phải yêu
    Quê hương là gì hở mẹ
    Ai đi xa cũng nhớ nhiều".


    Ai cũng có một quê hương, nơi đầu tiên đón nhận tiếng khóc của ta và chào đón ta vừa lúc lọt lòng. Nghĩ về quê hương, trong mỗi người lại gợi lên một hình ảnh riêng nhất, đẹp nhất xen lẫn một niềm xúc cảm chân thành lẫn tự hào. Bởi thế, dù đã có rất nhiều người nói về quê hương mình, làm thơ về quê hương nhưng quê hương trong Nói với con của Y Phương vẫn mang lại cho ta niềm xúc động sâu lắng.


    Có lẽ, ai cũng thế, những gì người ta thường gợi để nhớ về quê hương là những gì chân chất, mộc mạc, giản dị nhất. Nếu Đỗ Trung Quân gắn quê hương với hình ảnh "chùm khế ngọt", "đường đi học", là "con diều biếc"... thì Y Phương đã chỉ cho con:


    "Người đồng mình yêu lắm con ơi
    Đan lờ cài nan hoa
    Vách nhà ken câu hát
    Rừng cho hoa
    Con đường cho những tấm lòng".


    Đó là một vùng quê núi rừng còn chưa phát triển, nhưng con người thì vô cùng đáng quý, miền đất giàu truyền thống văn hoá và nhất là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn, tấm lòng chất phác thiện lương. Những người đồng mình thương lắm nhưng cũng lớn lao đầy khí phách trong cả nỗi buồn và chí hướng (Cao đo nỗi buồn; Xa nuôi chí lớn). Quê hương trong Nói với con có gì riêng nhưng cũng có cái gì đó rất chung.


    Nhưng có lẽ, điều in sâu đậm nhất trong lòng mỗi đứa con (và người đọc chúng ta) là những lời dặn dò, khuyên bảo của người cha. Đứa con trước cha, trước quê hương luôn mãi là một hình ảnh yêu thương, bé bỏng nhất và lúc nào cũng cần được chờ che, dạy dỗ. Bài học của cha luôn là động lực giúp con khôn lớn, cứng cỏi trước cuộc sống.


    Dấu làm sao thì cha vẫn muốn
    Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
    Sống trong thung không chê thung nghèo đói
    Sống như sông như suối
    Lên thác xuống ghềnh
    Không lo cực nhọc
    Người đồng mình thô sơ da thịt
    Chẳng mấy ai bé nhỏ đâu con.


    Chính giọng điệu của đoạn thơ đã gieo vào lòng người cảm xúc về những lời căn dặn đầy thân thương, chân thành, tha thiết. Dù hoàn cảnh sống có thế nào thì con người luôn phải vượt lên hoàn cảnh để mà sống. "Nỗi buồn" sẽ làm cho con người ta biết sống chịu đựng, ý chí sẽ rèn luyện cho con người ta luôn nỗ lực vươn tới, đi lên. "Cao đo nỗi buồn. Xa nuôi chí lớn" là những câu thơ có ý nghĩa như một lời động viên, là động lực mà người cha muốn truyền cho con, giúp con luôn vững bước, đi xa hơn với những quyết định trong cuộc sống của mình và luôn giữ bên mình niềm tin vào cuộc sống, sống ở đời sẽ không tránh được nỗi buồn, người biết sống cũng phải là người luôn "nuôi chí lớn" để làm cho cuộc đời, cuộc sống một điều gì có ý nghĩa. Đó cũng là kì vọng về tầm kích của con trong bước đường đời gian nan.


    "Cha" không biết nói gì hơn, người không thể thay thế cuộc đời, bước đi của con, người chỉ biết khuyên con: "Dẫu làm sao?", dẫu trên đường đời thắng lợi hay thất bại, khó khăn, vất vả thì điều quan trọng là con phải biết chấp nhận và đừng bao giờ gục ngã. Khó khăn, thử thách là nơi để rèn luyện tâm tính. Phải "sống như sông như suối" dẫu gặp "thác, ghềnh" ngăn cản vẫn trôi chảy vượt qua. Nhưng điều quan trọng nhất mà người cha dạy con là không vong bản, không quay mặt lại với mảnh đất đã nuôi mình khôn lớn. Đoạn thơ cho ta cả cảm giác về ánh mắt nheo nheo của cha nhìn con, khuyên bảo con bằng tất cả sự ân cần, vỗ về, sẵn sàng làm chỗ dựa vững chãi nhất, là vòng tay luôn dang rộng cho con khi con cần niềm động viên, an ủi.


    Quê hương dẫu là vùng rừng núi hoang sơ còn nhiều gian nan, khổ cực, đói nghèo nhưng con người - "người đồng mình" đã tự khẳng định bằng sức sống, nghị lực, ý chí và niềm tin, là chân dung dũng sĩ:


    Người đồng mình thô sơ da thịt
    Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
    ...
    Con ơi tuy thô sơ da thịt
    Lên đường
    Không bao giờ nhỏ bé được
    Nghe con.


    Đi xa, sống ở đâu, hãy luôn là người đồng mình, xứng đáng là người đồng mình không bao giờ nhỏ bé. Với lời thơ trong sáng, giản dị, hình ảnh thơ gần gũi quen thuộc và đặc biệt giọng thơ chắc nịch nhưng thiết tha khiến Nói với con vừa ân tình vừa nghĩa lí giúp cho ta bài học làm người không quên xứ sở, nguồn gốc. Bởi đó là nguồn sức mạnh của ta.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Trong thành tựu của văn học hiện đại Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám có những đóng góp không nhỏ của thơ ca các dân tộc anh em. Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn,… là lớp các nhà thơ đi trước. Y Phương là một trong các nhà thơ tiêu biểu sau này. Thơ Y Phương nói riêng và thơ các dân tộc thiểu số nói chung có những đặc điểm riêng rất dễ nhận ra. Đó là cách nói, cách nghĩ bằng hình ảnh, mộc mạc, cụ thể, giàu sức khái quát và cũng giàu chất thơ về gia đình, về quê hương, đất nước. Tuy vậy, ở mỗi nhà thơ hình thành một phong cách riêng, chẳng hạn như ở Y Phương là chất suy tư giàu trải nghiệm về lẽ sống, về đạo lí làm người, về sự gắn bó với quê hương, đất nước. Đó là chất giọng lắng sâu tuy là thủ thỉ tâm tình mà đầy nội lực.


    Sức thuyết phục, sự lan toả cứ hồn nhiên mà toả rạng không một chút kiểu cách, phô trương hay lí luận dài lời. Kết cấu bài thơ vừa theo chiều dọc: đứa trẻ sinh ra, lớn dần lên đến lúc trưởng thành đã có thể đi xa "nuôi chí lớn", vừa phát triển theo chiều ngang: đứa trẻ gắn bó trong tình thương mến của gia đình, của quê hương, còn đến lúc có thể đi xa, hình ảnh quê hương vẫn như bóng với hình trở thành một thứ hành trang tinh thần vô giá. Để tiện phân tích, chúng ta tạm thời cắt ngang bài thơ, chia làm hai đoạn.


    Đứa con sinh ra và suốt một thời thơ ấu của nó. Bước đi chập chững đầu tiên của một con người thật trang trọng và cảm động. Trang trọng bởi lần đầu, đứa trẻ đi bằng đôi chân của mình, còn cảm động vì nó có thể yên tâm, tin cậy trong vòng tay của mẹ, của cha. Đứa trẻ ấy sinh ra trong hạnh phúc ("Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới - Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời") và lớn lên bằng sự đùm bọc, dắt dìu:


    Chân phải bước tới cha
    Chân trái bước tới mẹ


    Câu thơ tưởng như chỉ là kể, tả ra xiết bao trìu mến, thân thương. Tấm lòng của mẹ, của cha là cái đích để đứa con hướng tới. Sự lớn lên của đứa trẻ rất đỗi hồn nhiên như mặt trời không bao giờ mọc từ hướng tây. Tiếng nói, tiếng cười là cái phía hướng đông rạng rỡ. Hình ảnh cụ thể mà rất giàu chất thơ là ở cách đo đếm chiều dài:


    Một bước chạm tiếng nói
    Hai bước tới tiếng cười


    Hai thao tác tư duy không cùng trong một hệ thống, vừa ngộ nghĩnh vừa sáng tạo biết bao ! Không biết đó là sáng tạo của nhà thơ, hay người Tày ở Cao Bằng xưa nay nói thế, và nếu đó là khẩu ngữ, một cách nói quen miệng dân gian mộc mạc thì chính dân tộc Tày của tác giả vốn dĩ đã có một hồn thơ. Câu thơ có được cái ấm áp, ríu rít, ngọt ngào, một thứ âm vang mà những người làm mẹ, làm cha ai mà không bồi hồi xao xuyến. Tuy vậy, dù tấm lòng cha mẹ có độ bao dung rộng lớn đến đâu, đứa con rất cần nhưng vẫn là chưa đủ. Ở đây có một bầu sữa tinh thần thứ hai, đó là quê hương. Quê hương hiện lên bằng ba yếu tố: rừng, con đường và "người đồng mình". Rừng, con đường tuy chỉ là những hiện tượng gỗ, đá vô tri nhưng cũng biết đem cho những thứ mà đứa trẻ cần để lớn:


    Rừng cho hoa
    Con đường cho những tấm lòng


    Cái đẹp của thiên nhiên, không chỉ là màu sắc, cái nhìn thấy mà còn cả "tấm lòng", một dạng thức vô hình, chỉ con người mới có thể cảm nhận được, câu thơ đã đi dần vào chiều sâu và sự khái quát. Rừng thì chở che, con đường thì mở lối, nhưng có lẽ đáng yêu hơn vẫn là con người xứ sở:


    Người đồng mình yêu lắm con ơi.

    Vậy cái đáng "yêu lắm" đó là cái gì nếu không phải là cốt cách tài hoa và tinh thần vui sống:


    Đan lờ cài nan hoa
    Vách nhà ken câu hát.


    Thì ra dưới cái dáng vẻ "thô sơ da thịt", một tâm hồn lãng mạn biết bao! Mạch thơ có sự đan xen: quê hương và gia đình cùng nuôi đứa trẻ lớn lên ở chặng đường đời đầu tiên của bé. Ý thức về nguồn cội sau này là từ cả hai chung đúc lại giúp cho đứa trẻ trưởng thành đặt chân lên con đường dài, rộng hơn kế tiếp. Phần thứ hai của bài thơ là những lời trao gửi, dặn dò khi đứa trẻ đã "cao" hơn, dặm bước cũng "xa" hơn, xa cái mái nhà yêu thương và núi rừng quê hương. Ta bắt gặp ở đây một lần nữa cái cách nói rất khác lạ mà cũng rất hay:


    Cao đo nỗi buồn
    Xa nuôi chí lớn.


    Lấy sự từng trải (buồn) để đo chiều cao, lấy chí lớn để đánh giá độ xa. Chỉ có điều so với đoạn trước, câu thơ có phần nhọc nhằn hơn và do đó rắn rỏi cũng nhiều lên. Đoạn thơ biết đặt ra những vấn đề hệ trọng hơn, vấn đề lẽ sống:


    Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
    Sống trong thung không chê thung nghèo đói
    Sống như sông như suối
    Lên thác xuống ghềnh
    Không lo cực nhọc


    Ở đây, con người trưởng thành phải nhận ra hoàn cảnh. Những đá những thung, những thác những ghềnh là cái nghèo, cái khó bao vây. Đó là những thử thách rất khó vượt qua nhưng lại nhất thiết bằng nghị lực phải vượt qua. Biểu hiện trước hết của nghị lực là không được bi quan, than thở, rồi sau đó, nói như người Kinh "chân cứng đá mềm". Cách nghĩ ấy, cách sống ấy có cái cốt cách Việt Nam được diễn đạt bằng một giọng điệu riêng nhưng không phải là không cứng cỏi. Ba từ "sống" đặt ở đầu câu nối tiếp nhau không chỉ như một lời răn dạy thông thường. Nó thành kính thiêng liêng như việc giữ lửa và truyền lửa cho nhau, đó là vấn đề sống chết. Nói đến nghị lực cũng là nói đến nhân cách làm người. Nhân cách ấy là không chịu "nhỏ bé", phải ngẩng cao đầu như "Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương"… Một lần nữa, quê hương hiện lên như một nguồn tiếp sức, nhưng không phải như thời bé thơ chỉ có an ủi, vỗ về, mà là tư thế thẳng bước mà đi, nhằm thẳng mục tiêu mà tiến.


    Về nghệ thuật bài thơ, cùng với cách nói, cách sáng tạo hình ảnh (như trên đã phân tích), cần bổ sung về nhịp điệu, giọng điệu, thể loại thơ và các biện pháp tu từ. về nhịp điệu thơ lúc nhanh, lúc chậm, chậm trong kể tả, nhanh đến dồn dập thiết tha trong khát vọng làm người, khi mạch thơ chỉ còn là một mũi tên chí hướng. Đặc biệt mật độ mau thưa không đều của câu nói về "người đồng mình" như một nốt nhấn, tạo nên một tiết tấu tự nhiên phụ thuộc vào cảm xúc và ý nghĩ của người cha trong cuộc đối thoại đơn phương (hình tượng đứa con không xuất hiện). Nếu ở phần đầu, sự dịu dàng, âu yếm là âm điệu chủ thì sau đó phần lí trí đã được nâng lên. Nhưng dù là ngọt ngào hay nghiêm túc thì ẩn chìm trong dó vẫn là một tiếng nói thiết tha vừa thương yêu vừa hi vọng.


    Riêng về thể thơ, Nói với con được viết bằng một thứ thơ không gò bó, độ dài ngắn của từng câu thơ không đều nhau. Thể thơ tự do này thích hợp với phong cách trò chuyện hằng ngày, phù hợp với một lối tư duy bình dị, hồn nhiên không cần đến sự cầu kì, đẽo gọt. Ngoài ra, cũng cần chú ý những biện pháp tu từ, ví dụ điệp từ (trong nhiều trường hợp), biện pháp đối lập nhằm làm nổi bật ý thơ như "Người đồng mình thô sơ da thịt – Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con", ở đây có sự đối lập giữa thể xác và tinh thần. Hoặc hình thức nối tiếp theo kiểu bắc cầu: "Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương - Còn quê hương thì làm phong tục". Những yếu tố về nghệ thuật ấy tự nó bổ sung cho nhau như tấm vải nhiều màu, những chiếc túi thổ cẩm xinh xinh, một thứ "túi thơ" của người miền núi.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  4. Gia đình, quê hương là cái nôi đầu đời của mỗi con người. Tình cảm gia đình, quê hương là sợi dây vô hình níu giữ bước chân của những con người xa quê với cội nguồn. Với giọng điệu tâm tình nhỏ nhẹ, Y Phương cho ta cảm nhận niềm hạnh phúc gia đình bình dị mà ai trong chúng ta cũng từng được trải qua:


    "Chân phải bước tới cha
    Chân trái bước tới mẹ
    Một bước chạm tiếng nói
    Hai bước tới tiếng cười"


    Ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị, hình ảnh thơ chân thực cùng với nhịp thơ nhanh kết hợp với điệp cấu trúc hình ảnh: 1 bước, 2 bước. Giúp dựng lên trước mắt chúng ta bức tranh gia đình với không khí đầm ấm hòa hợp quấn quýt đầy ắp niềm vui hạnh phúc. Hình ảnh trung tâm của bức tranh ấy chính là đứa trẻ đang tập đi tập nói , từng bước chân và tiếng cười của nó đều được cha mẹ nâng niu. Viết những câu thơ này dường như Y Phương cũng đang sống với tâm thế của một người làm cha thật, với những niềm vui và hạnh phúc khi được đón chờ cô con gái đầu lòng vì vậy mà 4 câu thơ đầu ông viết thay cho lời tâm sự niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người khi được sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương của gia đình. Những câu thơ chính là những lời nhắc nhở về cội nguồn sinh dưỡng đầu tiên của bất cứ ai đó là gia đình.


    Những con người không chỉ lớn lên trong tình yêu thương gia đình mà còn có một mái ấm lớn hơn đó là quê hương. Y Phương cũng thấu hiểu và nhắc nhớ trong ba câu thơ tiếp theo. Con người đồng mình, chính là con người quê hương, con người vùng mình những con người uống chung một dòng suối, đi chung một con đường. Ba tiếng "người đồng mình" gợi lên bao tình cảm thân thiết ruột thịt giữa những con người ở quê hương. Các bộc lộ tình cảm trực tiếp qua từ "yêu lắm" cùng với cụm từ "con ơi" tạo giọng điệu lời thơ tha thiết chan chứa tình yêu lời chân trọng người đồng mình. Trong những lời thơ, công việc của người đồng mình là những việc đan lờ bắt cá, ken vách làm nhà qua ba động từ liên tiếp: "đan, ken cài". Hai câu thơ làm sáng lên vẻ đẹp của cuộc sống tâm hồn mơ mộng lãng mạn. Nghệ thuật ẩn dụ: "cài nan hoa"; "ken câu hát" với đôi tay khéo léo của con người quê hương vót nan tre nan trúc để đan lờ được nhìn như đan hoa. Vách nhà không chỉ được đan bằng bùn đất rơm rạ mà còn được đan bằng những câu hát. Ý thơ xuất phát từ thực tế song cũng được đúc kết từ cái nhìn đầy tinh tế của Y Phương. Thiên nhiên quê hương còn được Y Phương vẽ nên bởi hai hình ảnh: "những cánh rừng bạt ngàn và con đường dài vô tận".


    “Rừng cho hoa
    Con đường cho những tấm lòng
    Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
    Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời."


    Hoa vốn là biểu tượng của cái đẹp tinh thần là kết tinh của điều tinh túy mà rừng đã hào phóng mang lại cho con người những gì đẹp nhất. Hình ảnh ẩn dụ "những con đường" mở ra ý thơ thêm sâu sắc, con đường là con đường đi hằng ngày lên núi nhưng cũng là hình ảnh cho con đường đời, trên con đường ấy con sẽ nhận được biết bao sự giúp đỡ chân thành từ những người đồng mình. Như vậy, cả con người và thiên nhiên của quê hương đều xây dựng cho con tâm hồn lối sống vì vậy con phải biết trân trọng và bảo vệ quê hương. Kết thúc khổ thơ cuối, bằng giọng chân tình cha đã kể cho con nghe về ngày cưới của cha mẹ, ngày hai tâm hồn gặp nhau mang lại cho con niềm hạnh phúc, điều tốt đẹp nhất. Mạch thơ có sự đan xen tình gia đình - tình quê hương - tình gia đình cùng nuôi dưỡng chở che tạo cho con cả hình hài và tâm hồn.


    Khổ thơ tiếp theo cha kể cho con nghe về phẩm chất của người đồng mình. Mở đầu bài thơ ấy là câu nói mà như thốt lên: ‘người đồng mình thương lắm con ơi’ câu thơ như điệp lại câu thơ mở đầu nhưng từ yêu chuyển thành từ thương. Chỉ một chữ "thương" nhưng diễn tả bao cảm xúc chan chứa: cha không chỉ yêu, tự hào về người đồng mình mà còn thấy thương xót cho nỗi vất vả nhọc nhằn của con người đồng mình


    "Cao đo nỗi buồn
    Xa nuôi chí lớn"


    Câu thơ ngắn lại làm cho câu thơ như hai vế đối kháng khá chuẩn chỉnh cả về từ ngữ lẫn ý nghĩa. Đó là sự đối lập giữa hai hoàn cảnh sống và ý chí nghị lực kiên cường của người đồng mình. Nỗi buồn và trí lớn thuộc lĩnh vực tinh thần đã được Y Phương dùng cách nói cụ thể của người dân miền núi lấy độ cao của núi để đo vất vả gian nan, lấy tầm xa của rừng đê đo ý chí nghị lực. Hình ảnh ẩn dụ nuôi chí lớn gợi cảm giác sự dẻo dai bền bỉ ôm ấp khát vọng hoài bão quyết tâm vượt qua mọi khó khăn.


    "Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
    Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
    Sống trong thung không chê thung nghèo đói"


    Cách điệp cấu trúc sống trên đá và sống trong thung ở đầu mỗi câu thơ gợi lên một cuộc sống nghèo đói vất vả lam lũ và đầy trắc trở của con người đồng mình. Điệp từ không chê tạo cho lời thơ vừa da diết đanh chắc như lời nhắc nhở con phải biết chấp nhận quê hương khó khăn thử thách, phải biết sống ân tình thủy chung với que hương đừng vì quê hương nghèo khó mà rời bỏ lãng quên. Hai câu thơ chất chứa nỗi niềm của một người làm cha cũng là nỗi niềm của một người làm lãnh đạo và là một nhà văn hóa. Lời thơ như mang hơi thở của thời đại, Y Phương đã nhấn mạnh vấn đề nhạy cảm khi ấy: nhiều người chê đá gập ghềnh chê quê hương è mọn mà rời bỏ quê hương để tìm đến một vùng đất mới. Y Phương sợ điều đó sẽ xảy ra với con mình bởi lẽ khi đã rời bỏ quê hương là rời bỏ cội nguồn. Vì vậy mà Y Phương đã hai lần dặn cho “không chê” để con khắc cốt ghi xương tình cảm đừng vì quê hương nghèo khó mà quay lưng; đừng vì quê hương gập ghềnh mà phai bạc, con phải biết trân trọng quê hương. Mạch cảm xúc như được nối dài:


    "Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
    Sống trong thung không chê thung nghèo đói
    Sống như sông như suối
    Lên thác xuống ghềnh
    Không lo cực nhọc"


    Nghệ thuật so sánh: "sống - sông, suối" cũng mang đập tư duy của người miền núi luôn gắn với sự vật hiện tượng với thiên nhiên. Sống như sông như suối thể hiện một cách sống thoáng đạt thẳng thắn hồn nhiên mộc mạc nhưng hết sức mạnh mẽ và dạt dào tình cảm của người đồng mình. Nghệ thuật ẩn dụ "lên thác xuống ghềnh" gợi lên cuộc sống dù khó khăn vất vả nhưng con phải biết chấp nhận vững vàng đối mặt không được né tránh, không sợ gian lao mà vượt lên.


    Những câu thơ tiếp theo lại là những câu thơ về người đồng mình. Hình ảnh "thô sơ da thịt" là hình ảnh vừa diễn tả vẻ mộc mạc chất phác quê mùa thô kệch không hào hoa nghệ thuật trong cuộc sống. Song tương phản với sự thô sơ mộc mạc mấy lại chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con. Cụm từ "đâu con" tạo cho âm điệu câu thơ vừa tha thiết ngọt ngào. Dùng cách nói phủ định "chẳng mấy ai nhỏ bé" để nói với con rằng con người quê hương mình vô cùng mạnh mẽ, cao thượng không tầm thường giàu nghị lực sống và trong sạch đầy khát vọng.

    "Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương"


    Câu thơ không nói đến tình yêu quê hương hay sự chất phác mộc mạc mà hình ảnh người đồng mình gắn liền với công việc lao động thương ngày: đó là công việc đuc đá dựng dậu lam nương. Công việc vất vả nhọc nhằn nhưng lại là hình ảnh đặc trưng của người dân miền núi. Vì vậy chính công việc nặng nhọc ấy tạo nên truyền thống cho quê hương; người đồng mình tự hào mà nêu cao truyền thống ấy, bằng hình ảnh cụ thể kê cao quê hương người cha đã ngợi ca ý chí của con người đồng mình tự xây dựng mảnh đất nghèo khó còn quê hương trở thành điểm tựa tâm hồn cho mỗi con người đồng mình.


    "con ơi tuy thô sơ....nghe con"


    Âm điệu câu thơ da diết như tiếng gọi con để nhắn nhủ lời nhắn trìu mến tâm tình của người cha. Lần thứ hai hình ảnh "thô sơ da thịt" được nhắc lại nhưng nếu ở lần thứ nhất cha muốn con cảm nhận được vẻ đẹp của người đồng mình thì lần này cha muốn con phải khắc cốt ghi tâm: người quê mình chân chất mộc mạc nhưng ẩn sâu vẻ đẹp chân chất ấy lại là một lẽ sống cao đẹp vì vậy con phải giữ vững và phát huy lẽ sống cao đẹp của con người đồng mình. Câu thơ tiếp theo đột ngột thu lại còn hai tiếng "lên đường" làm cho nhịp thơ đanh hơn giống như một lời nhắc nhở con lên đường cũng chính là con đang bước vào đời. Câu thơ cuối gửi gắm tâm tình cũng là mong muốn của cha dành cho con: "không bao giờ được nhỏ bé nghe con" con phải tự tin bước trên đường đời mạnh mẽ chấp nhận khó khăn để vươn lên, không được lùi bước phải sống trong sạch cao thượng xứng đáng là con người đồng mình. Người cha lúc này giống như một người truyền lửa cho con, cha mong con sống chân thành mộc mạc không hèn mọn. Lời nhắn nhủ của cha dành cho con vừa kiên định lại vừa thiết tha "nghe con" gợi lên tiếng dặn dò với bao trìu mến thương yêu.


    Bài thơ viết theo thể thơ tự do câu ngắn dài đan xen linh hoạt; âm điệu câu thơ vừa ngọt ngào vừa cứng rắn cùng với hình ảnh mang đậm nét tư duy của dân tộc miền núi. Bài thơ đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúm với lời ca ngợi truyền thống cần cù của con người quê hương. Lời thơ vừa tha thiết nhưng cũng hết sức nghiêm khắc về một lẽ sống cao đẹp. Đó là những điều gần gũi thiêng liêng vừa có ý nghĩa với muôn đời và muôn đời.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  5. Y Phương sinh năm 1948 là nhà thơ của dân tộc Tày, sống ở vùng cao tỉnh Cao Bằng. Những sáng tác của Y Phương như bức tranh thổ cẩm của miền rừng núi cao nguyên mang đậm màu sắc của tình cảm gia đình chân thành. “Nói với con” là một trong những bài thơ sáng tác năm 1980 tiêu biểu cho phong cách sáng tác của tác giả khi viết về lời nhắn nhủ chân thành của cha với con.


    Những vần thơ đầu tiên của bài, tác giả đã khắc tả tình yêu của cha mẹ cùng sự chăm sóc của quê hương với đứa con.


    “Chân phải bước tới cha
    Chân trái bước tới mẹ
    Một bước chạm tiếng nói
    Hai bước tới tiếng cười”


    Đứa con từ lúc lọt lòng đã được bao bọc, yêu thương trong vòng tay của cha mẹ. Từng ngày, từng giờ con lớn lên là từng ngày từng giờ cha mẹ mong chờ. Từ lúc con chập chững bước những bước đi đầu tiên trong cuộc đời thì cha mẹ luôn là người ở bên cạnh chứng kiến và cổ vũ. Hình ảnh “chân phải”, “chân trái”, “tiếng nói”, “tiếng cười” bình dị, gần gũi biết bao nhiêu. Một không gian ấm áp và hạnh phúc bao trùm lấy từng nhịp thơ. Hiện ra trước mắt người đọc là hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày, là sợi dây gắn kết gia đình gần nhau thêm. Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhắc nhở con về cội nguồn quê hương:


    “Người đồng mình thương lắm con ơi
    Đan lờ cài nan hoa
    Vách nhà ken câu hát
    Rừng cho hoa
    Con đường cho những tấm lòng
    Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
    Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”


    “Người đồng mình” được nhắc lên nghe đầy thân thương trìu mến. Đó là những con người dân tộc mộc mạc, bình dị, chăm chỉ làm ăn, khéo léo trong mọi công việc. “Người đồng mình” chăm chỉ lao động nhưng cũng đầy tài hoa, khéo léo. Từ “đan”, “cài” không chỉ nói lên sự gắn bó quấn quýt mà còn nói lên nghĩa tình sâu nặng, khó có thể phai nhoà của những con người nơi đây. Tác giả đã gieo vào long người con mình tình cảm, cội nguồn đáng trân trọng và gìn giữ. Quê hương nuôi con khôn lớn, rừng cho hoa là nuôi dưỡng cho con những cái đẹp, con đường cho những tấm lòng là con đường mở lối nâng đỡ tâm hồn con, cho con cảm nhận mạch nguồn của quê hương. Con phải nhớ về cội nguồn vì nơi này nuôi con lớn không chỉ vóc dáng mà cả tâm hồn con. Hai câu thơ:


    “Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
    Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”


    như nhắc con nhớ rằng, con là đoá hoa đẹp nhất nảy nở ở tình yêu của cha mẹ. Bởi vậy cha mẹ luôn yêu con, luôn thương con. Những vần thơ tiếp theo, tác giả nêu lên những đức tính đẹp của người đồng mình và ước muốn của cha với con. Vẫn là cụm từ “ Người đồng mình” lại vang lên thân thương gần gũi. Vẫn giọng nói trầm ấm, tình cảm, người cha nói với con về những đức tính cao đẹp của người đồng mình.


    “Người đồng mình thương lắm con ơi
    Cao đo nỗi buồn
    Xa nuôi chí lớn"


    Họ sống cuộc sống vất vả “Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn” nhưng họ vẫn là những con người rất mạnh mẽ, có chí khí, là những con người yêu quê hương tha thiết, gắn bó với quê hương mình. Chính vì tình cảm sâu nặng gắn bó với quê hương ấy mà người đồng mình đã “tự đục đá kê cao quê hương”. Họ đã làm nên quê hương với những phong tục, truyền thống tốt đẹp, bằng chính sự cần cù của mình. Người cha đã ca ngợi những con người mộc mạc, giản dị, nhưng giàu chí khí, với niềm tin mãnh liệt và ý chí mạnh mẽ. Thiên nhiên không ban tặng cho người nơi đây địa hình thuận lợi, cuộc sống tuy khó khăn nhưng người đồng mình vẫn chịu thương chịu khó, sống gắn bó, nỗ lực vượt qua tất cả. Từ đó, cha đã nhắc nhở con phải sống có nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương. Con phải biết chấp nhận, biết can đảm vượt qua gian lao thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình:


    “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
    Sống trong thung không chê thung nghèo đói
    Sống như sông như suối
    Lên thác xuống ghềnh
    Không lo cực nhọc.”


    Lời cha nhắn nhủ với con tâm tình thủ thỉ mà đầy mạnh mẽ để mong con sống sao cho xứng với “ người đồng mình”. Cha còn mong con sống nhớ đến đất nước, yêu đất nước như người đồng mình yêu quê hương dân tộc:


    “Người đồng mình thô sơ da thịt
    Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
    Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
    Còn quê hương thì lầm phong tục”
    Và mong ước lớn nhất của cha:
    “Con ơi tuy thô sơ da thịt
    Lên đường
    Không bao giờ nhỏ bé được
    Nghe con.”


    Người đồng mình tuy nghèo đói, tuy còn lạc hậu nhưng vẫn là người đồng mình. Con cũng là một phần của nơi đây. Cha mong con khi bước đi trên con đường dài rộng không bao giờ phải nhún mình, phải sợ hãi, mà con phải mạnh mẽ, ý chí phi thường để xây dựng quê hương, xây dựng đất nước.


    Bài thơ “Nói với con” của Y Phương bằng giọng thơ tha thiết như lời tâm tình trò chuyện cùng thể thơ tự do phù hợp mạch cảm xúc của tác giả đã thể hiện tình yêu của cha dành cho con. Tình yêu ấy của cha bộc lộ niềm tự hào về những phẩm chất của quê hương, dân tộc mình đồng thời nhắc con sống sao cho đúng, cho xứng với người đồng mình và qua đó thể hiện những triết lý nhân sinh ở đời.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  6. Có lẽ các bạn cũng đã biết xưa nay tình mẫu tử luôn là đề tài phong phú cho thơ ca. Những bài thơ nói về tình cảm cha con thì rất là ít. Riêng bài thơ " Nói với con" của tác giả Y Phương là một trong những tác phẩm rất hiếm hoi đó. Bài thơ Nói với con thể hiện tình cảm êm ấm của gia đình, tình yêu quê hương da diết, ngọt ngào và ngợi ca giá trị truyền thống tình nghĩa, sức sống mạnh mẽ của người dân miền núi.


    Cội nguồn sinh dưỡng của con trước hết là cái nôi gia đình con lớn lên trong mái ấm có cha có mẹ trong vòng tay yêu thương. Cha mẹ thấy hạnh phúc sung sướng, từ bước chập chững từ tiếng nói tiếng cười đầu tiên của con. Cách nói mộc mạc, nghệ thuật liệt kê điệp ngữ, gợi ra không khí gia đình đầm ấm tràn ngập yêu thương.


    “Người đồng mình yêu lắm con ơi

    Đan lờ cài nan hoa
    Vách nhà ken câu hát
    Rừng cho hoa
    Con đường cho những tấm lòng"


    Hơn thế, cái nôi nhỏ bé ấy, còn được đùm bọc bởi cái nôi rộng lớn đó là quê hương. Con lớn lên trưởng thành trong cuộc sống lao động trong thiên nhiên thơ mộng nghĩa tình quê hương. Tác giả vận dụng cách nói của người miền núi để sáng tạo những hình ảnh cụ thể vừa mang tính khái quát cao. Người đồng mình, vùng núi, dân tộc mình yêu lắm con ơi. Đan lờ, ken vách cần cù lao động, cần cù lao động đùm bọc sẻ chia gắn bó với nhau.


    "Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng"


    Thiên nhiên đẹp đẽ thơ mộng trở qua nghệ thuật nhân hóa. Điều đó khẳng định một quê hương nghĩa tình. Người cha muốn nói với con vẻ đẹp ấy của người đồng mình mà để yêu, gắn bó. Do đó, khi sung sướng ôm con thơ vào lòng nhìn con khôn lớn, suy nghĩ về nghĩa tình làng bận quê nhà người cha nghĩ về kỉ niệm hạnh phúc.


    "Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
    Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”


    Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước ở bên con. Vẫn cách diễn đạt mộc mạc độc đáo. Nhà thơ tiếp tục thể hiện, nét đẹp của người đồng mình qua những hình ảnh đặc sắc.


    "Người đồng mình…

    …….

    không lo cực nhọc"


    Điệp ngữ “người đồng mình" lặp lại ba lần, đó là cảm xúc trào dâng trong tâm trạng nhà thơ. Biết bao nỗi niềm thiêng liêng da diết với quê hương với con người nơi đây mà thổn thức thành lời gọi " Yêu lắm, thương lắm, con ơi". Đứng trước hoàn cảnh quê hương đất nước lúc bấy giờ điểm tựa tinh thần và củng cố niềm tin duy nhất là cách tin vào sức mạnh truyền thống dân tộc lòng thủy chung với quê hương. Dù hôm nay quê hương, người đồng mình còn nghèo gian nan vất vả." Sống trên đá, trong thung lên thác, xuống ghềnh" thì cũng đừng " chê đá gập ghềnh, chê thung nghèo đói". Lạc quan " như sông, như suối". Trong ý thơ có nét đặc sắc, nhà thơ lấy cái cao xa của trời đất để đo tầm kích của nỗi buồn và ý chí người đồng mình, tác giả muốn nhắn nhủ khuyên răn truyền cho con cách nhìn và nghị lực, nỗi buồn dẫu cao to như núi thì ý chí tâm hồn con người, sẽ càng xa càng dài như sông suối, lớn lao như biển rộng. Phải biết chân trọng yêu thương nơi mình sinh ra và lớn lên. Dù gian nan đến đến đâu cũng đừng chê đừng bỏ, đừng làm việc trái lòng mình. Phải biết cần cù lạc quan để vượt qua để sống cho xứng đáng. Người đồng mình tuy mộc mạc thô sơ nhưng giàu bản lĩnh và lòng tự trọng


    “Người đồng mình thô sơ da thịt
    Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
    Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
    Còn quê hương thì là phong tục”


    Ý thơ cụ thể mà hàm ý sâu xa, nhà thơ nhắc lại hai lần người đồng mình thô sơ da thịt, mộc mạc. Về lời ăn tiếng nói nhưng chẳng mấy ai nhỏ bé về ý chí nghị lực lòng tự trọng mà ngược lại rất mạnh mẽ, khoáng đạt giàu niềm tin và tinh thần lạc quan, bền bỉ gắn bó với quê hương. Câu thơ độc đáo mang cách nói đặc trưng sâu sắc của người miền núi.


    “Người đồng mình thô sơ da thịt
    Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
    Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương"


    Đục đá kê cao là hành động thực người miền núi thường đục quá kê cao nhà kê nối đi, từ hình ảnh đó lời thơ chuyển nghĩa khái quát " kê cao quê hương" đó là ý thức bảo vệ và tinh thần xây dựng quê hương ngày càng tiến bộ giàu đẹp hơn là tôn vinh giữ gìn truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương.


    Những câu cuối, nhà thơ khẳng định muốn truyền cho con sức mạnh vào truyền thống quê hương, người đồng mình tuy thế nhưng sống cao đẹp, mong con sau này lớn khôn trưởng thành trên cuộc đời phải sống cao thượng để xứng đáng truyền thống tốt đẹp đó. Bài thơ sử dụng thể thơ tự do, số câu số chữ không khuôn chỉnh phù hợp mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt nhịp điệu bay bổng nhẹ nhàng.


    Qua những lời tâm sự của cha đối với con. Ta thấy tình cảm cha con thật thân thích, trìu mến, người cha luôn muốn truyền dạy cho con những điều tốt đẹp nhất. Chính vì vậy, mỗi người con như chúng ta hãy chân trọng cố gắng giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của ông cha ta.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  7. Ca dao từng có câu: "Công cha như núi Thái Sơn". Có phải vì vậy mà người cha luôn khao khát những đứa con có được sự vững vàng, rắn rỏi mạnh mẽ trên đường đời. Qua bài thơ Nói với con của Y Phương, người đọc nhận thấy tình cảm và mong ước của một người cha như vậy dành cho con, một thứ tình cảm nồng ấm và thiêng liêng, giản dị. Bài thơ đồng thời cũng gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về trách nhiệm của người làm con.


    Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ niềm tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Nhà thơ đã mở rộng từ tình cảm gia đình đến tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống. Mở đầu bài thơ bằng những hình ảnh cụ thể, Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt. Từng bước đi, từng tiếng nói tiếng cười của con được cha mẹ mừng vui đón nhận:


    "Chân phải bước tới cha
    Chân trái bước tới mẹ
    Một bước chạm tiếng nói
    Hai bước tới tiếng cười"


    Những câu thơ có cách diễn đạt thật độc đáo đã cho thấy tình yêu thương của cha mẹ đối với con. Con lớn lên hàng ngày trong tình yêu thương ấy, trong sự nâng niu, mong chờ của cha mẹ. Không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ, thời gian trôi qua, con trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. Đó là cuộc sống của những "người đồng mình", rất cần cù và tươi vui:


    "Người đồng mình thương lắm con ơi
    Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát
    Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng
    Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới
    Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời".


    Những từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện: cài nan hoa, ken câu hát,... đã miêu tả cụ thể cuộc sống ấy đồng thời thể hiện tình cảm gắn bó, quấn quýt của con người quê hương. Rừng núi quê hương thơ mộng và trữ tình cũng là một trong những yếu tố nuôi con khôn lớn, nâng đỡ tâm hồn con. Thiên nhiên với những sông, suối, ghềnh, thác... đã nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống: "Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng". Cách gọi "người đồng mình" đặc biệt gần gũi, thân thiết và gắn bó như gợi niềm ruột thịt yêu thương.

    Không chỉ gợi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình". Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ:


    "Người đồng mình thương lắm con ơi
    Cao đo nỗi buồn
    Xa nuôi chí lớn".


    Dùng những từ ngữ rất mạnh mẽ như "cao", "xa", "lớn", tác giả muốn nhấn mạnh cuộc sống khoáng đạt, mạnh mẽ của những "người đồng mình". Dù khó khăn, đói nghèo còn nhiều nhưng họ không nhụt chí, ý chí của họ vẫn rất vững chắc, kiên cường:


    "Người đồng mình thô sơ da thịt
    Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
    Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
    Còn quê hương thì là phong tục"


    Những "người đồng mình" vượt qua vất vả để bám trụ lấy quê hương. Bằng cuộc sống lao động không mệt mỏi, họ xây dựng quê hương với những truyền thống cao đẹp. Những "người đồng mình" mộc mạc, thẳng thắn nhưng giàu chí khí, niềm tin...Người cha đã kể với con về quê hương với cảm xúc rất tự hào. Tình cảm của người cha dành cho con rất thiết tha, trìu mến. Tình cảm này bộc lộ tự nhiên, chân thực qua những lời nhắn gửi của cha cho con. Người cha muốn con sống phải có nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận những khó khăn, vất vả để có thể:


    "Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
    Sống trong thung không chê thung nghèo đói
    Sống như sông như suối
    Lên thác xuống ghềnh
    Không lo cực nhọc"


    Người cha mong cho con mình sống ngay thẳng, trong sạch, sống với ý chí, niềm tin để vững vàng vượt qua mọi thử thách khó khăn. Người cha mong cho con sống phải luôn tin vào khả năng của mình, tin tưởng vào bản thân. Có như vậy, con mới có thể thành công, mới không thua kém ai cả Người cha đã nói với con bằng tất cả lòng yêu thương của mình, nói với con những điều từ đáy lòng mình. Điều lớn nhất người cha đã truyền dạy cho con chính là niềm tự tin vào bản thân và lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống của quê hương.


    Qua những lời người cha nói với con, có thể thấy tình cảm của người cha đối với con thật trìu mến, thiết tha và tin tưởng. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn nói với con chính là niềm tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương và niềm tin khi bước vào đời.


    Bài thơ đã gợi cho người đọc những niềm cảm động sâu xa và những suy nghĩ sâu sắc. Thì ra, đằng sau những lặng lẽ, thâm trầm của cha là biết bao yêu thương, biết bao mong mỏi, biết bao hi vọng, biết bao đợi chờ ... Con lớn lên như hôm nay không chỉ nhờ vào cơm ăn và áo mặc mà còn mang nặng ân tình của những lời dạy dỗ ân cần thấm thía. Quả là:


    "Công cha như núi Thái Sơn
    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".

    Vậy thì, là người làm con, con xin nguyện:

    "Một lòng thờ mẹ kính cha
    Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".


    Chẳng những vậy, con sẽ bước theo những bước chân vững chắc mà cha để lại trên con đường cha bước đến đỉnh Thái Sơn - nguyện "sống như sông như suối", nguyện ngẩng cao đầu "lên đường" mà không "thô sơ da thịt". Và trên con đường ấy, con sẽ mang theo hình ảnh quê hương để tiếp tục nối tiếp cha anh "tự đục đá kê cao quê hương" thân thiết của mình. Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật, tuy nhiên, độc đáo nhất và đặc sắc nhất là cách thể hiện, diễn tả tình cảm. Những từ ngữ, hình ảnh trong bài rất mộc mạc nhưng đồng thời cũng rất giàu hình ảnh gợi tả vừa cụ thể vừa có sức khái quát cao.


    Bài thơ nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương, của dân tộc. Qua lời nói với con, ta phần nào hiểu rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn những tình cảm của người cha dành cho con. Những bài học mà người cha trong bài thơ Nói với con có lẽ là những bài học mà bất kỳ người cha nào cũng muốn dạy cho con mình. Và những bài học giản dị, mộc mạc đó có lẽ sẽ theo con suốt trên chặng đường đời, bài học của cha - bài học đầy ý nghĩa sâu sắc.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  8. Tình cảm gia đình, tình yêu đối với quê hương xứ sở là những tình cảm nguyên sơ nhưng là những tình cảm thiêng liêng nhất đối với con người Việt Nam. Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ sau tiếp nối xứng đáng truyền thống của tổ tiên, dân tộc, quê hương là sự thể hiện cụ thể của tình cảm cao đẹp đó. Nhiều nhà thơ đã giãi bày những sắc thái tình cảm ấy lên trang giấy. Chúng ta bắt gặp trong bài thơ Nói với con của tác giả Y Phương những lời tâm tình thiết tha, những lời dặn dò ân cần của người cha đối với con được diễn đạt bằng cách nói mộc mạc, chân chất của người miền núi, bằng những hình ảnh giản dị tưởng như thô ráp nhưng vẫn mang vẻ đẹp tinh khôi của cảnh và tình nơi rừng núi quê hương.


    Mở đầu bài thơ, bằng những lời tâm tình với con, Y Phương đã gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người. Gia đình và quê hương là cái nôi êm, để từ đó con lớn lên, trưởng thành với những nét đẹp trong tình cảm, tâm hồn.


    Chân phải bước tới cha
    Chân trái bước tới mẹ
    Một bước chạm tiếng nói
    Hai bước tới tiếng cười


    Thoạt tiên, những câu thơ đầu của bài thơ rất dễ được cho là đang miêu tả một tình huống cụ thể thường gặp trong đời sống: con đang tập đi, cha mẹ vây quanh mừng vui, hân hoan theo mỗi bước chân con. Tuy nhiên, đằng sau lối nói cụ thể đó, tác giả muốn khái quát thành một điều lớn hơn, có tính chất chiêm nghiệm: con lớn lên bằng tình yêu thương, trong sự nâng đón, vỗ về, mong chờ của cha mẹ. Những hình ảnh ấm êm với cha và mẹ, những âm thanh sống động, vui tươi với tiếng nói, tiếng cười là những biểu hiện của không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt, hạnh phúc tràn đầy. Không khí gia đình đầm ấm, thân thương ấy là một hành trang quý báu đối với cuộc đời, tâm hồn con. Đó cũng là yếu tố đầu tiên hình thành nên những phẩm chất tâm hồn mỗi con người.


    Bên cạnh tình cảm gia đình thắm thiết, hạnh phúc, quê hương và cuộc sống lao động trên quê hương cũng giúp con trưởng thành, giúp tâm hồn con được bồi đắp thêm lên. Ở khổ thơ tiếp theo này, tác giả đã sử dụng những cách nói, những hình ảnh của người miền núi – nơi sinh dưỡng của chính mình – để nói những điều chân thực về quê hương rừng núi:


    Người đồng mình yêu lắm con ơi
    Nan lờ cài đan hoa
    Vách nhà ken câu hát


    Khi tâm tình với con về cuộc sống lao động của “người đồng mình”, tác giả đã lựa chọn đưa vào những hình ảnh đẹp đẽ “nan lờ cài đan hoa” và tươi vui “vách nhà ken câu hát”. Những động từ đan, ken, cài bên cạnh việc giúp cho người đọc hình dung được những công việc cụ thể của con người trên quê hương còn gợi ra tính chất gắn bó, hoà quyện, quấn quýt của con người và của quê hương xứ sở. Phải chăng đó chính là nguồn cội nuôi dưỡng tâm hồn con người?


    Mỗi vùng quê, mỗi mảnh đất quê hương cụ thể trong mình nó chứa bao nhiêu truyền thống quý báu. Truyền thống đó có thể là những phẩm chất tâm hồn của cộng đồng người sống trên mỗi vùng quê đó và họ luôn tự hào về nó. Trong bài thơ Nói với con tiếp theo sự khái quát gia đình và sự lao động trên quê hương là nguồn cội sinh dưỡng mỗi con người, nhà thơ Y Phương đã tiếp tục đi tìm nơi sinh thành ra những phẩm chất của “người đồng mình” mà ông đã cất tiếng yêu tha thiết ngay ở khổ thơ đầu “Người đồng mình yêu lắm con ơi”.

    Nói đến quê hương cũng là nói đến cảnh quan đặc trưng của nơi con người cụ thể sinh ra và trưởng thành từ đó. Quê hương của “người đồng mình” với hình ảnh rừng, một hình ảnh gắn liền với cảnh quan miền núi, hiện ra thật thơ mộng, đẹp đẽ “rừng cho hoa”. Hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn với nó những hình ảnh khác, và cũng có thể “rừng” hơn cách nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú hoặc cả những bí mật bất trắc của rừng. Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh hoa để nói về cảnh quan rừng. Trong tiếng Việt, hoa nhiều khi được hiểu như những gì đẹp, quý. Hoa trong Nói với con có thể là hoa thực – như một đặc điểm của rừng – và khi đặt trong mạch của bài thơ, hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mĩ đáng giá. Nó góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó.


    Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương với con. Đó cũng chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong tâm hồn mỗi người, bởi “Con đường cho những tấm lòng”, vẻ như mộng ấy của thiên nhiên, nghĩa tình sâu đậm ấy của “những tấm lòng” đã che chở, nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của con.


    Khi đọc những lời thơ này, chắc hẳn nhiều người liên tưởng đến một bài thơ quen thuộc: bài thơ Quê hương của Đỗ Trung Quân. Không chọn cách nói hoàn toàn giống Y Phương trong Nói với con song những điều tác giả muốn nói lại có những điểm tương đồng. Trong hình thức trả lời cho câu hỏi của một em bé “Quê hương là gì hở mẹ? Mà cô giáo dạy phải yêu! Quê hương là gì hở mẹ! Ai đi xa cũng nhớ nhiều?” Tác giả đã đi đến định nghĩa quê hương trong hàng loạt những câu trúc khẳng định: Quê hương là chùm khế ngọt! Đường đi học! Cánh diều! Con đò nhỏ! cầu tre nhỏ! Đêm trăng tỏ. Nếu như những hình ảnh núi rừng được Y Phương chấm phá trong Nói với con thì hình ảnh một miền quê mang đậm cảnh sắc nông thôn yên ả cũng hiện ra trong bài thơ Quê hương. Và tác giả của quê hương cũng luôn lấy lại rằng, mỗi cảnh vật cụ thể ấy đều gắn với những hành động của con, với hình dáng mẹ – hình ảnh thân thương nhất đời của mỗi con người. Hai tác giả dường như đã gặp nhau ở cùng một cách hiểu: quê hương là những gì gần gũi thân thương nhất và cũng là nguồn cội của những tình cảm sâu sắc, tha thiết nhất của con người. Và tình cảm cũng sẽ lại khởi nguồn cho những tình cảm lớn lao, bền vững hơn như tình yêu đất nước, như Xuân Diệu đã từng khái quát: “Tình yêu tổ quốc là đỉnh núi bờ sông”. Trong Nói với con chỉ vài câu thơ ngắn, vài lời thơ giản dị nhưng đã mở ra những ý tứ sâu xa, thâm trầm gần như được nâng lên tầm triết lý. Sức mạnh của thơ, quyền năng, sự quyến rũ của thơ là ở đó chăng?


    “Người đồng mình” không chỉ “yêu lắm” với những hình ảnh đẹp đẽ, giản dị ghi nhắc nguồn cội sinh dưỡng tâm hồn, tình cảm, lối sống cho con người mà còn với những đức tính cao đẹp, đáng tự hào. Trong lời chân tình của cha có niềm ước mong con sẽ kế tục, phát huy một cách xứng đáng truyền thống của tổ tiên, của quê hương xứ sở. Tự hào con người quê hương với những phẩm chất, đức tính quý báu mà người cha muốn truyền đạt lại cho con:


    Cao đo nỗi buồn
    Xa nuôi chí lớn
    Sống trên đá không chê đá gập nghềnh
    Sống trong thung không chê thung nghèo đói
    Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc.


    Tác giả dùng nhiều ảnh cụ thể để gợi ra cuộc sống nơi quê hương còn vất vả cực nhọc, đói nghèo. Nhưng đó chưa phải là tất cả những gì tác giả muốn gợi ra và nhắc tới. Tác giả tự hào về “người đồng mình” với những đức tính cao quý: khoáng đạt, mạnh mẽ, tình cảm thuỷ chung như nhất gắn bó với quê hương dẫu còn bao khó khăn cực nhọc.


    Không chỉ vậy, “người đồng mình” còn có những đức tính khác nữa mà người cha rất đỗi tự hào: tuy có thể mộc mạc, thô sơ da thịt nhưng giàu chí khí, niềm tin, không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí và mong ước xây dựng quê hương. Chính những đức tính tốt đẹp cùng với sự lao động cần cù, nhẫn nại hàng ngày tạo nên sức mạnh để làm nên quê hương với truyền thống, với phong tục tập quán tốt đẹp: “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương, còn quê hương thì làm phong tục”.


    Gửi trong những lời tự hào không giấu giếm đó, người cha ước mong, hy vọng người con phải tiếp nối, phát huy truyền thống để tiếp tục sống có tình có nghĩa, chung thuỷ với quê hương đồng thời muốn con biết yêu quý, tự hào với truyền thống của quê hương. Không chỉ gửi ước mong của mình đầy tự hào, người cha còn bộc lộ trực tiếp niềm mong ước này trong lời thủ thỉ dặn dò con thiết tha, trìu mến: “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn”. Trong những bài thơ cuối cùng: “Con ơi tuy thô sơ da thịt! Lên đường! Không bao giờ nhỏ bé được! Nghe con” người cha dặn dò con cần tự tin mà vững bước trên đời, tiếp nối những truyền thống tốt đẹp của “người đồng mình”.


    Bài thơ Nói với con của Y Phương góp thêm một tiếng nói yêu thương của cha mẹ đối với con cái cũng như những kì vọng lớn lao, mong muốn thế hệ sau sẽ kế tục, phát triển những truyền thống quý báu của quê hương. Bằng cách diễn đạt mộc mạc “thô sơ”, bằng những hình ảnh cụ thể mà giàu khái quát, bài thơ đã thể hiện một cách độc đáo mà cũng thật thấm thía về tình cảm thiết tha sâu sắc nhất của con người: tình cảm gia đình và tình yêu quê hương xứ sở.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  9. Bài thơ ra đời cuối những năm bảy mươi của thế kỉ XX, khi cả đất nước đứng trước hiện thực khó khăn sau chiến tranh. Với hai mươi tám câu thơ tự do, bài thơ có thể chia làm hai phần. Mười một câu thơ đầu là tình cảm gia đình, quê hương đầm ấm, tươi vui. Mười bảy câu còn lại là truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người đồng mình và mong muốn của người cha.


    Gia đình, quê hương là cái nôi đầu đời của mỗi con người. Tình cảm gia đình, quê hương là sợi dây vô hình níu giữ bước chân của những con người xa quê với cội nguồn. Với giọng điệu tâm tình nhỏ nhẹ, Y Phương cho ta cảm nhận niềm hạnh phúc gia đình bình dị mà ai trong chúng ta cũng từng được trải qua:


    Chân phải bước tới cha
    Chân trái bước tới mẹ
    Một bước chạm tiếng nói
    Hai bước tới tiếng cười


    Đó là những bước đi chập chững đầu tiên, gia đình tràn ngập trong "tiếng nói, tiếng cười" yên vui. Khi con lớn lên, cha mẹ vẫn luôn theo dõi bước chân của con trên mọi nẻo đường đời. Cha mẹ là điểm tựa vững chắc nâng đỡ từng bước con đi, không gì hạnh phúc bằng con có cha mẹ. Bảy câu thơ tiếp: Con còn lớn lên trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. "Người đồng mình" là người vùng mình, người quê hương. Đây là cách nói giản dị, thân thuộc, mộc mạc của người miền núi.


    Đan lờ cài nan hoa
    Cách nhà ken câu hát


    "Đan lờ" để bắt cá, "ken" vách nhà làm chỗ che nắng, che mưa, những công việc lao động hàng ngày qua cách liên tưởng của tác giả trở nên thi vị, lãng mạn, đầy chất thơ. Động từ "cài", "ken" vừa miêu tả những động tác, cử chỉ cụ thể, vừa nối liền cuộc sống vật chất và tinh thần. Lao động, xây dựng cuộc sống no ấm, từ đó mà nảy sinh thơ ca, nhạc họa, nảy sinh đời sống tinh thần phong phú (hoa, câu hát).


    Hoa biểu tượng cho cái đẹp. "Rừng cho hoa" để tâm hồn người đồng mình thêm phong phú, biết yêu thương, trân trọng những giá trị tinh thần. "Con đường cho những tấm lòng" thơm thảo, biết sẻ chia, biết đồng cảm nỗi buồn vui. Thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình đã nuôi dưỡng, chở che con người, nếu con người biết gắn bó với quê hương, quê hương sẽ cho tất cả những gì tốt đẹp nhất cả giá trị vật chất lẫn tinh thần. "Người không phụ đất thì đất chẳng phụ người".


    Y Phương đã vận dụng lối diễn đạt của người dân tộc, thiên về cách nói cụ thể, vừa sinh động, khái quát mà vẫn không kém phần thi vị về vẻ đẹp cuộc sống lao động của người miền núi. 17 câu còn lại: Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong muốn của người cha qua lời tâm sự với con. Mỗi lần người cha tâm sự với con về "người đồng mình" thì một lần phẩm chất cao đẹp của người đồng mình lại hiện ra.


    "Người đồng mình" cuộc sống vất vả "lên thác xuống ghềnh" nhưng giàu chí khí, biết lấy "nỗi buồn" mà "nuôi chí lớn", lấy cái cao xa của đất trời làm thước đo "nỗi buồn" và "chí lớn" ấy. Người cha muốn con ghi nhớ lấy những truyền thống ấy để mà thương mà nhớ:


    "Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn...nghèo đói".


    Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, là mảnh đất thiêng liêng, càng nghèo khó, càng phải gắn bó sẻ chia. Bởi vậy, mà quê hương đi vào văn học với một niềm thương nỗi nhớ của bao thế hệ. Họ tự hào hát về quê hương. Người dân xứ Nghệ hát về quê mình:


    "Ơi Hà Tĩnh mình, đường về có nhớ
    Trời chang chang nắng ai quàng áo tơi
    Cho ta thương nhau mồ hôi chát mặn
    Cho ta thương nhau vầng trăng không lẻ bạn
    Đứt ruột nhớ mong..."

    Người Quảng Bình tự hào:

    "Giữ lấy đất trời của quê hương ta
    Giữ lấy con người mà ta yêu quý..."


    Quê hương dù nghèo đói, khổ đau... nhưng bát cơm, dòng nước quê hương vẫn chảy trong ta, nơi đó ấp iu bao nghĩa tình. Nhạc sĩ khẳng định:


    "Sông cứ chảy trong ta, núi cứ lớn trong ta
    Đi xa lại muốn về, khổ đau càng muốn về"

    Bởi như nhà thơ Đỗ Trung Quân từng nói:

    "Quê hương mỗi người chỉ một
    Như là chỉ một mẹ thôi
    Quê hương nếu ai không nhớ
    Sẽ không lớn nỗi thành người".


    "Người đồng mình thô sơ da thịt" nhưng không nhỏ bé về tâm hồn. Như đã nói ở trên, họ giàu chí khí, tâm hồn phong phú, biết đồng cảm, sẻ chia.


    Người đồng mình... phong tục.


    "Đục đá", một cách nói cụ thể diễn đạt công việc lao động vất vả theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Dẫu phải "đục đá", họ vẫn muốn lao động xây dựng quê hương giàu đẹp, "kê cao quê hương". Một tình yêu chân chính, sâu sắc phải được biểu hiện bằng hành động cụ thể. Yêu quê hương mà quê hương vẫn còn nghèo khó thì phải lao động để xây dựng quê hương. Còn "quê hương thì làm phong tục", "phong tục" là lối sống, nếp sống sinh hoạt đẹp đẽ của quê hương. Lối sống đó sẽ theo con đi bốn phương trời, nhớ về quê hương là nhớ những phong tục đẹp đẽ ấy. Từ những truyền thống đẹp đẽ của quê hương, từ những phẩm chất của người đồng mình, người cha mong muốn:


    Con ơi, tuy thô sơ da thịt
    Lên đường
    Không bao giờ nhỏ bé được
    Nghe con.


    Lần thứ nhất người cha nói đến "Người đồng mình thô sơ da thịt" để nói cho con về sức sống mạnh mẽ của quê hương, sức mạnh truyền thống của quê hương; lần thứ hai, người cha nhắc lại như để con khắc cốt ghi xương rằng: quê hương mình tuy mộc mạc, chân chất, người đồng mình tuy thô sơ da thịt nhưng sống cao đẹp, nên trên đường đời con phải làm những điều lớn lao, con phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng là "người đồng mình". "Lên đường" đi xa con phải biết tự hào về quê hương và tự tin để bước vào đời. Truyền thống của quê hương, niềm tự hào về quê hương trở thành hành trang con mang theo trên mọi nẻo đường. Người cha đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh của truyền thống quê hương.


    Trách nhiệm của người con là phải biết tự hào, phát huy những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, đồng thời gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của quê hương, cố gắng học tập thật tốt để góp phần xây dựng quê hương ngày một tốt đẹp.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy