Top 6 Bài văn phân tích hai khổ đầu bài thơ "Sang thu" của Hữu Thỉnh hay nhất
Bài thơ "Sang thu" của Hữu Thỉnh ra đời gần cuối năm 1977, khi đất nước mới thống nhất hòa bình in trong tập "Từ chiến hào đến thành phố" đã gây ấn tượng mạnh ... xem thêm...mẽ với người đọc bởi lời thơ trong sáng, dung dị, hình ảnh sinh động, nhiều cảm xúc. Bài thơ là những cảm nhận tinh tế cùng sự quan sát tỉ mỉ về biến chuyển của đất trời từ cuối hạ sang thu, từ đó bộc lộ tình yêu thiên nhiên thiết tha của một tâm hồn nhạy cảm và sâu sắc. Mời bạn đọc tham khảo một số bài văn cảm nhận hai khổ thơ đầu của bài thơ "Sang thu" của Hữu Thỉnh mà Toplist đã sưu tầm và tổng hợp trong bài viết dưới đây.
-
Với một đoạn thơ ngắn vẻn vẹn hai khổ mà nhà thơ đã dựng lại một bức tranh nồng đượm hơi ấm cuộc đời, hơi ấm quê nhà. Những hình ảnh sang thu thân quen, giản dị mà tươi tắn, sống động.
Nếu mùa xuân là mùa hội tụ của những bàn tay nghệ sĩ tài hoa thì mùa thu bước vào trong thơ ca cũng tự nhiên và gần gũi. Trước đây, Nguyễn Khuyến nổi tiếng với ba bài thơ thu: “Thu điếu”, “Thu vịnh, Thu ẩm", sau này Xuân Diệu có “Đây mùa thu tới”. Nhỏ nhẹ, khiêm nhường, Hữu Thỉnh cũng góp vào cho mùa thu đất nước một góc quê hương sang thu:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu."
Đoạn thơ có cái hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra là hương vị ổi pha trong gió. Mùi hương quê nhà mộc mạc được gió đưa trong không gian cứ lan tỏa, thoang thoảng bay. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: “bỗng nhận ra". Một sự bất ngờ mà như đã đợi sẵn, đợi từ lâu rồi, để giờ đây có dịp là buông ra ngay. Trong số chúng ta chắc chắn không ai chưa một lần nếm vị ổi: giòn ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi. Cái dư vị của hương thơm đó cứ vấn vít vương lại trong ta khi chợt đọc câu thơ của Hữu Thỉnh. Có hương ổi, và gió, và sương. Những hạt sương thu mềm mại, ươn ướt giăng màn qua ngõ. Mùa thu lại về. Mùa thu mang theo hương quê và mang theo sương mờ ướt lạnh. Dường như có thêm sương nên thu dễ nhận ra hơn. “Sương chùng chình qua ngõ", “chùng chình" hay là đợi chờ gì đây? Cứ dần dần như thế, cứ nhẹ nhàng, mềm mại như thế, thu đến tự lúc nào không hay. “Hình như thu đã về" nhà thơ giật mình, hơi bối rối. Tự bao giờ nhỉ? Thu về? Từ hương ổi hay từ gió, hay từ sương ? Hữu Thỉnh cũng hơi ngỡ ngàng trước thoáng đi bất chợt của mùa thu. Thu về, thu lại về trên quê hương, trên những con đường bờ đê và trên cả những con sông, cánh chim trời.
Cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu."
Con sông quê hương dâng nước chở mùa thu. Những cánh chim bay vội vã. Thật lạ lùng mùa thu! Nơi thì “chùng chình”, "dềnh dàng”, mà nơi thì “vội vã", hối hả... Nhưng tất cả đều với một cảm giác mới mẻ, xôn xao khi mùa thu về. Không còn cái gay gắt của mùa hè nóng nực, chỉ còn lại một bầu không gian ẩm ướt và se lạnh. Một thoáng rối lòng để rồi nhường lại cho thu. Mùa thu vừa chớm rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới. Hữu Thỉnh không tả trời thu “xanh ngắt mấy tầng cao” như Nguyễn Khuyến mà chỉ điểm vào bức tranh thu một chút mây vương lại của mùa hè vừa qua:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu''
Mây trời vắt nửa mình sang thu. Lối diễn đạt của nhà thơ thật độc đáo. Hình như trong đám mây đó còn lại một vài làn nắng ấm mùa hè nên mới "vắt nửa mình” thu về làm cho bao cảnh vật đổi thay và đám mây cũng khác lạ.
Với một đoạn thơ ngắn vẻn vẹn hai khổ mà nhà thơ đã dựng lại một bức tranh nồng đượm hơi ấm cuộc đời, hơi ấm quê nhà. Những hình ảnh sang thu thân quen, giản dị mà tươi tắn, sống động. Với những từ ngữ lấp láy: “chùng chình", “vội vã", “dềnh dàng”, và một giọng thơ vừa có thoáng ngỡ ngàng, vừa vui sướng. Hữu Thỉnh đã đưa ta về một miền quê dân dã mà ấm áp tình người. “Sang thu” - một hình ảnh quê hương tự nó đã tôn thêm vẻ đẹp cho đất nước, cho quê nhà, cho đồng quê trong mùa thu chung của cả đất trời Việt Nam.
-
Có lẽ trong bốn mùa xuân hạ thu đông thì mùa thu luôn là mùa được ưu ái hơn cả khi bước vào địa hạt thi ca. Xoay quanh đề tài mùa thu, cổ kim đông tây có biết bao bài thơ hay, gửi gắm những suy nghĩ, tâm tình khác nhau. Nằm trong nguồn mạch chung của văn học, Hữu Thỉnh cũng góp một tâm tình, một bức tranh đẹp đẽ, bình dị của mùa thu Bắc Bộ Việt Nam với bài thơ Sang thu.
Sang thu là thời điểm mở đầu, như một bông hoa chớm nở, nét thu còn chưa rõ, mà mùa hạ vẫn còn vấn vương. Bởi vậy để cảm biết được trọn vẹn tín hiệu, vẻ đẹp của mùa thu cần phải có một tâm hồn rất đỗi tinh tế, nhạy cảm. Và hồn thơ Hữu Thỉnh là một hồn thơ nhạy cảm như vậy. Mở đầu bài thơ là mùi hương vô cùng quen thuộc – hương ổi:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Nếu như mùa thu trước đây đều được cảm nhận bằng những tín hiệu cổ điển như: hoa cúc, cây phong, cây ngô đồng, mới hơn thì có Xuân Diệu, với hình ảnh rặng liễu: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” thì Hữu Thỉnh lại tìm đến một mùi hương hết sức giản dị, thân thương của đồng quê, ấy là hương ổi. Hương ổi đậm sánh phả vào trong gió se, lan rộng vào khắp không gian. Và tác giả “bỗng nhận ra” – trạng thái không chuẩn bị, vô cùng bất ngờ, sửng sốt. Bởi hương thơm ấy, bởi mùa thu tác giả đã chờ đợi biết bao lâu nay cũng đã về. Nó là tiếng kêu vang thích thú, hào hứng khi bất chợt nhận ra khoảnh khắc thu sang. Bằng những cảm nhận hết sức tinh tế, Hữu Thỉnh đã đem đến cho người đọc một vẻ đẹp rất khác, rất bình dị, dân dã của mùa thu Bắc Bộ.
Sau sự ngỡ ngàng khi bất chợt nhận ra tín hiệu của mùa thu, Hữu Thỉnh tiếp tục nhận thấy một tín hiệu khác đó chính là những làn sương mỏng, nhẹ đang chùng chình đi qua ngõ:
Sương chùng chình qua ngõ
Sương mỏng nhẹ, chậm chạp đi qua ngõ, như cố nương lại, cố để báo cho thi nhân biết rằng bản thân cũng là một tín hiệu mỗi khi thu sang. Hình ảnh sương thu xuất hiện làm cho cả không gian ngõ xóm thêm phần mát mẻ, huyền ảo và bình yên. Đồng thời với biện pháp nhân hóa, khiến cho làn sương như có tâm trạng, nó đang chờ đợi và lưu luyến ai. Bằng sự nhạy cảm của các giác quan và sự tinh tế trong tâm hồn, Hữu Thỉnh đã cảm biến đầy đủ những tín hiệu thu về. Đây là biểu hiện của lòng yêu đời và yêu cuộc sống tha thiết.
Sau những bất ngờ, ngỡ ngàng trước khoảnh khắc thu sang, thi nhân mở rộng mọi giác quan để thấy được sự thay đổi của từng sự vật, hiện tượng mỗi độ thu về:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Tầm mắt đã được mở ra với không gian rộng rãi, khoáng đạt hơn. Và ở không gian ấy, ông nhận ra biết bao sự thay đổi của các sự vật, hiện tượng. Khi thu về, sông không còn ồn ào, cuồn cuộn siết chảy mà thay vào đó là chậm chạp, lững lờ, khoan thai. Khi thu sang, thời tiết bắt đầu se lạnh, những chú chim cũng bắt đầu vội vàng đi về phương nam tránh rét. Hai câu thơ với hai sự vật có sự vật động trái ngược nhau: sông dềnh dàng, trên cao chim vội vã. Đó là khoảnh khắc khác biệt của vạn vật, trong thời khắc chuyển giao giữa hai mùa.
Nhưng đặc biệt nhất trong khổ thơ này chính là hình ảnh đám mây. Trong thơ ca Việt Nam nói về đám mây có không ít, là tầng mây xanh ngắt trong thơ Nguyễn Khuyến: Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt; là lớp mây đùn núi bạc trong thơ Huy Cận: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Còn đám mây của Hữu Thỉnh lại có sự hồn nhiên, tinh nghịch, khi nửa vẫn còn ở mùa hạ, nửa lại đã bước chân sang mùa thu. Tác giả đã thật tinh tế khi sử dụng từ “vắt” để nói đến thời điểm giao mùa, đám mây vắt mình lên ranh giới mong manh giữa hai mùa, để rồi đến cuối cùng chỉ còn lại sắc thu đậm nét. Câu thơ cho thấy sự tìm tòi, khám phá và trường liên tưởng thú vị của Hữu Thỉnh khi thời tiết chuyển giao.
Với thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu kết hợp với hình ảnh nhân hóa đặc sắc, Hữu Thỉnh đã đem đến cho thơ ca một mùa thu thật đẹp, thật mộc mạc giản dị. Mùa thu ấy là những rung cảm tinh tế và tài hoa, được cảm nhận qua lăng kính của người nghệ sĩ tha thiết yêu đời, yêu thiên nhiên vạn vật và yêu cuộc sống.
-
Mỗi mùa đều mang một vẻ đẹp, một hương sắc rất riêng. Và vẻ đẹp ấy, hương sắc ấy đã được nhà thơ Hữu Thỉnh bắt gặp. Ông đã cảm nhận được hơi thở của đất trời khi chuyển mình sang thu. Sự chuyển mình của mùa thu được nhà thơ thế hiện rõ ràng trong hai khổ thơ đầu:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Nhà thơ chợt nhận thấy thu về qua mùi hương ổi. Đó là một mùi hương đặc trưng, mùi hương nhè nhẹ, thoang thoảng nhưng lại làm thức tỉnh lòng người. Nhà thơ bắt gặp mùi hương ấy một cách rất tình cờ và rồi lại nhận thấy nó rõ ràng hơn trong làn gió thu se se lạnh. Động từ phả gợi cho ta cảm giác chỉ nhẹ thôi, nhưng lại rõ rệt, nó không mạnh mẽ nhưng lại đủ làm cho người đọc cảm giác đắm chìm trong đất trời mùa thu. Cùng với những làn gió thu nhè nhẹ, se se, từng màn sương chùng chình qua ngõ. Sương thu giăng đầy ngõ, di chuyển đủng đỉnh, chậm chạp. Từ láy chùng chình đã diễn tả cảm nhận đó của nhà thơ. Màn sương thu đã tạo cho nhà thơ cảm giác mờ ảo, thiên nhiên lúc này trở nên huyền bí. Với hương ổi trong vườn, làn gió se lạnh và làn sương chùng chình, nhà thơ như đã phần nào cảm nhận được hương sắc mùa thu. Tuy nhiên, cảm nhận ấy lại không chắc chắn, khiến nhà thơ đưa ra nhận định: Hình như thu đã về. Hình như là sự băn khoăn của nhà thơ. Và sự băn khoăn ấy lại được nhà thơ giải đáp trong khổ thơ thứ hai của bài thơ:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Rõ ràng mùa thu đã đến. Sắc thu không chỉ len lỏi trong mùi hương ổi, làn gió, màn sương mà lúc này nó bao trùm lên toàn cảnh vật. Nếu như khổ thơ đầu chỉ là sự suy đoán thì khổ thơ thứ hai lại là sự chắc chắn của tác giả.
Một loạt hình ảnh được tác giả nhân hoá làm thu sang rõ ràng bơn. Đó là một bức tranh thu trong sáng vô cùng. Những cảnh vật được nhà thơ lựa chọn để miêu tả đất trời vào thu đều đang ở trong trạng thái ngập ngừng nhưng đầy chủ động. Dòng sông dềnh dàng, đàn chim vội vã, đám mây mùa hạ đang vắt mình sang thu. Đây đều là những hình ảnh đặc sắc, không chỉ hiện lên ở hiện tại mà còn đem người đọc trở về với quá khứ mùa hạ. Dòng sông không còn dữ dội như mùa hạ mà trở nên dềnh dàng, chim vội vã để tránh gió thu se lạnh. Đặc biệt hơn, nhà thơ sử dụng động từ vắt với đám mây. Dường như đám mây ấy vẫn còn lưu luyến với mùa hạ nhưng lại phải tuân theo sự tự nhiên của đất trời bước sang thu. Dòng sông lững lờ, khoan thai trôi, đúng như sự êm ả, nhẹ nhàng của mùa thu. Tất cả những cảnh vật thiên nhiên ấy gợi cho chúng ta một điều: Mùa thu đã đến thật rồi! Thu sang được cảm nhận bằng tâm hồn thi sĩ thật mơ mộng. Cái hình ảnh về những sự vật ấy được nhà thơ nhân hoá vận động nhịp nhàng theo sự chuyển mùa hợp lí qua cảm nhận hết sức tinh tế của nhà thơ.
Sang thu của Hữu Thỉnh làm ta chợt nhận ra hương ổi, làn gió, màn sương thu hay dòng sông, đám mây... những sự việc gần gũi, thân quen làm nên đường nét rất riêng của mùa thu Việt Nam. Không chỉ riêng nhà thơ, mà mỗi chúng ta đều có thể cảm nhận được mùa thu ấy - một mùa thu êm ả, lắng đọng, ấm áp.
-
Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên, nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng điệu. Khi chúng ta chưa hết ngỡ ngàng bởi một Xuân Diệu "tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì" thì đã gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng "Sang Thu".
Bài thơ là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa - thể hiện rõ nhất qua 2 khổ thơ đầu. Mùa thu sang được báo hiệu không phải là sắc "mơ phai" hay hình ảnh "con nai vàng ngơ ngác" mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se,
Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là "hương ổi". Mùi hương quê nhà mộc mạc "phả" trong gió thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: "bỗng nhận ra" - một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lừng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Và không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ "chùng chình" diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ "bỗng nhận ra" thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sỹ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.
Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Sông nước đầy nên mới "dềnh dàng" nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội vã bay về phương nam ...Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng "vắt nửa mình sang thu". Câu thơ có tính tạo hình không gian nhưng lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới.
-
Mỗi năm có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông và thiên nhiên cũng vậy tùy theo thời gian mà đổi thay cảnh sắc. Mùa nào cũng đều đẹp, đều yêu, nhưng có lẽ mùa thu là một trong những mùa đẹp nhất, tình nhất. Bởi thế mà nhiều nhà văn, nhà thơ đều bị thu hấp dẫn mà viết nên những thi phẩm độc đáo, thành công. Bài thơ "Sang thu" của nhà thơ Hữu Thỉnh là một bài thơ hay như thế. Hai khổ thơ đầu của tác phẩm đã khắc hoạ được một bức tranh thiên nhiên đang chuyển mình sang thu đầy gợi cảm.
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Hương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Ổi là thức quả dân dã, quen thuộc ở mỗi vùng quê. Khi thu sang cùng là lúc ổi bắt đầu ra hoa, kết trái, hương thơm thanh nhã, nồng đượm mà vấn vương lòng người hòa quyện vào trong không gian nhờ ngọn gió se. Gió thì se se lạnh gợi những bâng khuâng và cả những yêu thương. Ta như cảm nhận được hương ổi cũng đang thong dong cùng gió đi khám phá những ngõ ngách của làng quê mình, câu thơ còn gợi liên tưởng về hình ảnh người thì sĩ đang đứng nơi nào đó, dùng khứu giác để cảm nhận, mà tận hưởng thứ hương ổi mê đầy mê hoặc ấy. Hương ổi không nặng nề hay quá đậm đà mà phả nhè nhẹ trong gió càng khiến người ta khắc khoải những thương yêu. Từ "bỗng" đứng đầu câu tựa như một sự bất ngờ khi thu sang, có lẽ người thi sĩ cũng từng chờ đợi giây phút thu về nên khi nhận ra những dấu hiệu ấy cảm thấy có chút ngạc nhiên phá lẫn sự mừng vui, đón đợi. Cụm từ "hình như" diễn tả sự mơ hồ, không chắc chắn nhưng trong câu thơ “Hình như thu đã về” lại được dùng để nhận định khoảnh khắc sang thu, chứa chan cảm xúc yêu thương, có chút náo nức, mong chờ của người thi sĩ.
Thu đã về rồi sao? Thu về trên quê hương, trên từng cánh đồng quê, từng dòng sông, bầu không khí và trên cả từng ngõ ngách đường làng. Thu về trong thơ bao thi nhân khác là sương giăng mờ kín lối, là lá vàng bắt đầu rụng cành, là gió heo may lành lạnh, thì với Hữu Thỉnh, thu mang một nét đẹp đầy riêng biệt:
"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu".
Chia tay mùa hè, thu sang khiến đất trời và cảnh vật thay áo mới, nhẹ nhàng, thư thái và êm đềm hơn. Dòng sông không còn vội vã như xưa, giờ đây sông chảy chầm chậm, dềnh dàng, mang cả vị thu trong từng làn nước xanh trong. Dòng sông nhẹ trôi gợi cảm giác nhẹ nhàng, yên bình nơi sâu thẳm tâm hồn của mỗi độc giả. Và trên không trung kia nữa, những cánh chim như vội vàng hơn, nhanh chóng hơn, dường như cánh chim cũng cảm nhận được cái chớm lạnh của đầu thu nên vội vã bay về phương Nam tránh rét.
Điều tuyệt vời nhất mà tạo hoá đã ban tặng cho mùa thu là một sắc trời riêng biệt, vừa dịu dàng lại vừa mạnh mẽ, vừa như chùng chình, chậm rãi lại vừa như vội vã, hối hả. Bởi thế mà đứng trước khoảnh khắc giao mùa, Hữu Thỉnh không khỏi bị hấp dẫn trước vẻ đẹp ấy. Ta còn nhớ Nguyễn Khuyến từng viết về trời thu đầy đẹp đẽ:
"Rời thu xanh ngắt mấy tầng cao"
Hãy trong thơ Xuân Diệu, trời thu nhuộm một màu áo " mơ phai" đầy huyền diệu:
"Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng"
Thì đến với Hữu Thỉnh, trời thu có nét riêng độc đáo, thứ còn đám mây mơ màng vương chút cuối hạ:
"Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Phải chăng áng mây kia cũng đang rạo rực khi thu về, muốn được khoe vẻ ưu tư và trầm mặc đầy yêu thương của mình với thế gian nhưng cũng còn chút nuối tiếc khi phải rời mùa hạ, muốn giữ lại chút gì đó của nắng vàng ấm áp.
Hai khổ thơ nhẹ nhàng, ngắn gọn mà đã mở ra cho ta một bức tranh thu vừa sống động lại vừa nên thơ. Có lẽ, sự cảm nhận tinh tế cùng tài năng trong ngòi bút tài hoa của mình, Hữu Thỉnh mới viết nên hồn thơ đẹp đến nao lòng như thế.
-
Thiên nhiên, tạo hóa luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho những nhà văn, nhà thơ được sáng tạo qua lăng kính nghệ thuật của mình. Lấy chất liệu từ thực tế, qua thời gian thai nghén, ấp ủ, những tác phẩm viết về thiên nhiên luôn mang màu sắc cá tính đặc trưng của tác giả, khi buồn bã đìu hiu, lúc nhiệt huyết, sôi nổi. Với Hữu Thỉnh, thiên nhiên trong ông là mùa thu, mùa của nỗi buồn man mác, nhưng dường như cái buồn ấy chẳng hề khiến cho ông cảm thấy u ám mà trái lại, mùa thu của ông đẹp tựa một cô thiếu nữ e thẹn, ngượng ngùng và dồi dào sức sống. Trong hai khổ đầu bài thơ "Sang thu", Hữu Thỉnh đã miêu tả một cách tỉ mỉ những bước chuyển mình của đất trời giao thoa giữa hai mùa, tạo nên một bức tranh thiên nhiên huyền diệu, tinh tế.
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu."
Xuất thân trong hoàn cảnh nghèo đói và trải qua tuổi thơ dữ dội, phải sống với bác, đi làm thuê từ khi mới mười tuổi nên thơ Hữu Thỉnh thường bắt nguồn từ những điều giản đơn, quen thuộc trong cuộc sống. Những tác phẩm của ông, từ thơ đến truyện ngắn, đều mang giọng điệu tự nhiên, hồn hậu, thể hiện một tâm hồn nhạy bén, phong phú và yêu cái đẹp. Nội dung không chỉ đơn thuần là kể, tả mà còn được lồng ghép những triết lý cuộc sống sâu sắc được tác giả đúc rút từ chính kinh nghiệm bôn ba của mình. Cũng chính vì vậy mà thơ ông luôn mang âm hưởng quen thuộc mà mới mẻ, bình dị mà đặc sắc, ẩn trong đó là những bài học quý báu, có giá trị nhân văn sâu sắc.
Từ những câu thơ đầu tiên, ta đã mường tượng được hương sắc của mùa thu đang từng bước bao trùm lên vạn vật:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về".
Với Xuân Diệu, mùa thu đến với sắc "mơ phai" tình tự và mộng mơ "Đây mùa thu tới, mùa thu tới / Với áo mơ phai dệt lá vàng" thì Hữu Thỉnh lại nhận ra mùa thu bằng mùi hương. "Hương ổi", mùi hương đặc trưng, "gió se", cơn gió heo may mang âm hưởng mùa thu Bắc Bộ. Mùi ổi dân dã, thanh thuần đượm vào trong không khí "phả" vào gió, vào lồng ngực. Cái "bỗng" sao mà ngạc nhiên, bất ngờ, thú vị đến thế. Dường như, tác giả bị bất ngờ trước sự xuất hiện của nàng thơ mùa thu, dù đã biết chắc chắn nó sẽ đến, đã đợi chờ từ trước, nhưng khi thu đến thật, Hữu Thỉnh vẫn không hết bỡ ngỡ mà "bỗng nhận ra" dư vị ngọt ngào ấy. Động từ "phả" mạnh mẽ, quyết liệt, thể hiện sự nhanh chóng, dứt khoát. Mùa thu tưởng chừng như nhẹ nhàng lắm, dịu dàng lắm, nhưng tác giả không viết "thổi vào trong gió se" mà là "phả". Mùa thu đã xâm chiếm cả không gian, mang hương ổi, mang cái se lạnh phả vào tâm hồn người nghệ sĩ nhạy cảm, khiến ông phải rung động, phải ngạc nhiên. "Sương chùng chình qua ngõ", lại một hình ảnh đặc trưng của mùa thu: sương. Làn sương mỏng manh như một bức màn bạc, "chùng chình", chậm chạp len lỏi vào từng con phố, từng ngóc ngách. Từ "chùng chình" gợi cảm giác nặng nề, kéo dài. Mùa thu từng chút, từng chút trải lên vạn vật một lớp sương mờ ảo, thêm chút gió se nao lòng và mùi ổi thơm quen thuộc, bình dị. Để rồi, nhà thơ phải bật thốt lên "Hình như thu đã về?". Những dấu hiệu đã rõ ràng đến thế, nhưng tâm hồn thi sĩ vẫn chưa cảm thấy chắc chắn, mọi thứ mới chỉ "hình như". Thu về tự bao giờ, đem đến bao ngỡ ngàng, bối rối. Thu về từ sương hay từ gió, từ hương ổi nồng nàn hay từ nỗi nhạy cảm của nhà thơ. Cái ngỡ ngàng đáng yêu như người con gái kín đáo, "tình trong như đã mặt ngoài còn e", đã hiển nhiên đến thế mà sao chẳng dám tin tưởng, chẳng thể rõ ràng.
Cái bỡ ngỡ ban đầu dần tan đi, nhường chỗ cho những rung động động chân thật, mãnh liệt trước mùa thu:
"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu."
Cùng với những bước chân đầu tiên của nàng thu, vạn vật cũng chuyển mình đón chào một hơi thở mới, một dòng chảy mới. Sông "dềnh dàng", dòng sông trở nên chậm chạp, uể oải hơn khi mùa thu đến, giống như làn sương "chùng chình", nặng nề., nhưng những cánh chim lại trở nên "vội vã", hối hả chuẩn bị cho cuộc di cư về phương Nam tránh rét. Nếu mùa hạ gợi nhắc đến sức sống, năng lượng tràn đầy khiến con người muốn vận động nhanh hơn, mùa đông lại là sự lạnh lẽo, cô liêu, u ám và rề rà, thì mùa thu lại mang những sắc thái đối lập, phong phú. Nơi "chùng chình", "dềnh dàng", nơi lại "vội vã", nhưng tất cả đều mang cảm giác mới mẻ, xao xuyến khi mùa thu về, xua tan cái nóng nực của mùa hạ bỏng cháy. Thu dịu êm, mơ hồ và nhẹ nhàng, như một bước đệm nhảy vọt khi đông đến. Mùa thu là sự giao thoa giữa hai sắc thái đối lập, có lẽ vì vậy mà ta nhìn thấy trong mùa thu vừa có cái sức sống âm ỉ, lại vừa có sự u hoài, buồn bã.
Hình ảnh đẹp nhất của hai khổ đầu bài thơ "Sang thu" là cảnh gợi tả đám mây:
"Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Tựa bài thơ được đặt là "Sang thu", nên chẳng mấy khó hiểu khi những rơi rớt của mùa hạ vẫn còn sót lại trong không gian. Đám mây mùa hạ còn quyến luyến chưa muốn rời, "vắt nửa mình sang thu". Lối diễn đạt độc đáo, tài ba, gợi ra một hình ảnh mang tính hòa quyện. Trong đám mây đó có cả những tia nắng bỏng cháy mùa hè, một nửa lại đã chuyển mình sang màu xám bàng bạc của mùa thu. Động từ "vắt" khiến người đọc hình dung đám mây giống như một dải lụa đào uyển chuyển, mềm mại, duyên dáng. Cảnh vật đổi thay, không gian đổi thay nhưng còn hoài niệm chút vương vấn. Phải chăng, mùa thu đến mang cho lòng người sự lưng chừng, e ấp, như đám mây kia còn cố níu giữ màu vàng nắng hạ. Phải là một cây bút tinh tế, một điểm nhìn độc đáo và một tâm hồn mong manh mới có thể nhìn thấy cái đẹp của thiên nhiên qua lăng kính vạn hoa đa chiều đến vậy.
Trong vỏn vẹn hai khổ thơ, Hữu Thỉnh đã vẽ nên một bức tranh thu với sông, với sương, với hương ổi, với mây gió. Khúc nhạc mùa thu qua thơ Hữu Thỉnh không réo rắt, cũng chẳng sầu bi nhưng lại in đậm trong tâm trí người đọc. Chẳng cao sang, đài các, những chất liệu hiện thực chân phương, bình dị, qua lối miêu tả gợi mở và những động từ đắt giá, hình ảnh nàng thu giống như cô thôn nữ miền đồng bằng Bắc Bộ đang độ tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống, ẩn mình sau lớp áo nâu sồng thanh thoát và vẻ dịu dàng, nữ tính đặc trưng. Đứng cạnh Xuân Diệu với "Đây mùa thu tới", Nguyễn Khuyến với "Thu điếu", "Thu vịnh", "Thu ẩm", "Sang thu:" của Hữu Thỉnh mang đến một làn gió âm trầm và nhẹ nhàng của mùa thu Bắc Bộ, đẹp dịu dàng mà có thể khiến lòng người vấn vương.