Bài soạn "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" số 6
Câu 1:
- Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa, nhưng chính nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn. Nhưng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề hai chữ “bài thơ”? Hai chữ đó cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà điều chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, vượt lên thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh.
- Trong bài thơ nổi bật lên một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa vào thơ thì được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” đi rồi và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Nay chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”. Cái hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất gần với câu văn xuôi, lại có giọng thản nhiên (“Không có kính… đi rồi”) càng gây ra sự chú ý về vẻ khác lạ của nó. Bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe ấy biến dạng thên, trần trụi hơn nữa: “Không có kính, rồi xe không có đèn – Không có mui xe, thùng xe có xước”>
- Hình ảnh chiếc xe không kính vốn không hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như của Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ.
Câu 2: Phân tích hình ảnh những chiến sĩ lái xe:
- Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những phương diện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dùng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ, khó khăn.
- Tác giả đã diễn tả một cách cụ thể và gợi cảm những ấn tượng, cảm giác của người lái xe trên chiếc xe không kính. Với tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” qua khung cửa xe không còn kính chắn gió, người lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài, “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng – Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Câu thơ diễn tả được cảm xúc về tốc độ trên chiếc xe đang lao nhanh. Qua khung cửa đã không có kính, không chỉ mặt đất mà cả bầu trời với sao trời, cánh chim như cũng ùa vào buồng lái. Nhà thơ diễn tả chính xác các cảm giác mạnh và đột ngột của người ngồi trong buồng lái, khiến người đọc có thể hình dung được rõ ràng những ấn tượng, cảm giác ấy như chính mình đang ở trên chiếc xe không kính.
- Người lái xe hiện ra với những nét tính cách thật cao đẹp”
+ Tư thế ung dung, hiên ngàng:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
+ Thái độ bất chấp khó khăn, gian khổ, nguy hiểm:
- Không có kính, ừ thì có bụi
…
Chân cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
- Không có kính, ừ thì ướt áo
…
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Họ là những thanh niên tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước.
Câu 3: Ngôn ngữ của bài thơ giống với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Những từ khẩu ngữ như “ừ thì”, “chưa cần rửa”, “chưa cần thay”, “phì phèo châm điếu thuốc”, “nghĩa là gia đình đấy” là cho câu thơ bình dị, phản ánh sự trẻ trung, hồn nhiên của chiến sĩ. Giọng điệu bài thơ có chút lí sự, tinh nghịch của những người trẻ tuổi: “Không có kính không phải vì xe không có kính”; “Không có kính ừ thì có bụi”; “Không có kính, ừ thì ướt áo”; “Chưa cần rửa….”; “Chưa cần thay…”. Giọng điệu đó phản ánh tinh thần lạc quan pha chút tinh nghịch của chiến sĩ lái xe. Chính tinh thần lạc quan đó đã làm cho họ có thể ung dung, bình tĩnh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ cùng những trận bom giật, bom rung để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho miền Nam.
Câu 4: Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ là một thế hệ dũng cảm. Họ đã đem tuổi xuân phục vụ cho khắp các mặt trận. Họ trực tiếp cầm súng hoặc cung cấp đạn dược, lương thực cho chiến trường, Họ là các chiến sĩ vận tải, là những đội viên thanh niên xung phong… Bất cứ ở đâu, họ đều có tác phong đường hoàng. Họ trẻ, khỏe, vui. Tính chất sôi nổi ấy thể hiện trong việc bắt tay đồng đội qua cửa kính vỡ, qua việc dựng lán, chung bát đũa nghĩa là gia đình. Tinh thần yêu đời, lạc quan ấy đã cho họ một sức mạnh để khắc phục những khó khăn. Họ vượt qua bom giật, chiến thắng bom rung, vượt qua bụi, mưa, và những hư hại của xe cộ.
Nếu so với người lính trong bài “Đồng chí” ta thấy thế hệ người lính chống Mĩ trẻ trung hơn, họ có phương tiện đầy đủ hơn (có ô tô chở người, vũ khí, đạn dược). Không thấy sự thiếu thốn, cũng không thấy nói nhiều đến cơn sốt (Mặc dù thời chống Mĩ cũng có nhiều chiến sĩ bị sốt và nhiều bài thơ nói về cơn sốt). Các phương tiện như áo quần, giày dép đủ hơn, lại có võng mắc trên đường ra trận. Tuy có nét khác nhau nhưng đều giống nhau ở tinh thần đoàn kết, khắc phục mọi khó khăn, quyết chiến, quyết thắng.