Bài soạn "Tiếng mẹ đẻ nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức" số 3
I. Tác giả
1. Tiểu sử - Cuộc đời
- Nguyễn An Ninh (1899 -1943)
- Quê: Xã Mĩ Hòa, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (Nay là TP HCM).
- Là nhà báo, nhà văn, nhà yêu nước đầu TK XX
- Từ một trí thức Tây học, ông đến với CN Mác và những người cộng sản.
- 1908 bị bắt đày đi Côn Đảo.
=> Là một trí thức tài cao học rộng.
2. Sự nghiệp văn học
a. Phong cách nghệ thuật
- Văn phong khúc chiết, trong sáng, có độ sâu về tư duy văn hoá, tràn đầy nhiệt huyết yêu nước gần gũi với đời sống và con người lao động.
- Lên án chính sách bóc lột và ngu dân của thực dân Pháp.
- Phê phán đạo Khổng – đề cao tinh thần học hỏi văn hoá châu Âu.
b. Tác phẩm chính
- Tác phẩm dịch: Khế ước xã hội.
- Vở tuồng: Hai Bà Trưng.
II. Tác phẩm
1. Xuất xứ - Hoàn cảnh ra đời:
- Văn bản là bài chính luận xuất sắc của Nguyễn An Ninh đăng trên báo Tiếng Chuông rè năm 1925.
2. Bố cục: 3 phần:
- Phần 1 ((Từ đầu đến "người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng"): Nêu hiện tượng học đòi Tây hóa.
- Phần 2 (Tiếp theo đến "hay sự bất tài của con người?"): Vai trò của tiếng mẹ đẻ đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
- Phần 3 (còn lại): Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước mình với nước ngoài.
3. Giá trị nội dung
- Tiếng nói là tài sản quý giá của dân tộc, phải biết bảo vệ nó và làm cho nó ngày càng phát triển.
- Tiếng mẹ đẻ còn là nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức.
- Tầm nhìn chiến lược của Nguyễn An Ninh về vai trò và tiếng nói dân tộc.
4. Giá trị nghệ thuật
- Luận điểm rõ ràng, logic.
- Dẫn chứng cụ thể, chân thực.
- Giọng điệu nhẹ nhàng đầy sức thuyết phục.
III. Trả lời câu hỏi
Câu 1 trang 91 SGK văn 11 tập 2
Nguyễn An Ninh đã phê phán những kiểu học đòi chạy theo "Tây hoá" trong các việc:
"Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình", bởi họ cho đó là "một dấu hiệu thuộc giai cấp quý tộc".
Nhiều người khác lại bắt chước những "kiểu kiến trúc và trang trí lai căng" của phương Tây.
=> "Nhiều người An Nam bị Tây hoá tưởng rằng khi cóp nhặt những cái tầm thường của phong hoá châu Âu họ sẽ làm cho đồng bào của mình tin là họ đã được đào tạo theo kiểu Tây phương"
Câu 2 trang 91 SGK văn 11 tập 2
Theo tác giả "Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị" Bởi ngôn ngữ là một trong những bản sắc văn hóa vô cùng quan trọng của mỗi quốc gia, dân tộc, mất đi tiếng nói tức là mất đi phần bản sắc vô cùng quan trọng ấy, mất đi dân tộc, giống nòi.
Câu 3 trang 91 SGK văn 11 tập 2
Để khẳng định rằng tiếng “nước mình” không nghèo nàn, tác giả căn cứ vào:
Vốn ngôn ngữ được thể hiện trong tác phẩm “Truyện Kiều” – Nguyễn Du vô cùng phong phú cả về phần hình thức lẫn nội dung, từ số lượng từ đến sự biểu đạt của một từ.
Đưa ra câu hỏi: "Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm của Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết những tác phẩm tương tự?" khi mà Trung Hoa là một quốc gia có nền văn hóa, văn học và cả ngôn ngữ vô cùng phong phú nhưng người Việt vẫn có thể dịch những tác phẩm nổi tiếng của Trung Hoa ra ta mà vẫn biểu đạt đầy đủ ý nghĩa của bản gốc. Tiếng An Nam đã làm được như vậy thì theo tác giả, không có lí gì để chúng ta không thể viết được những tác phẩm tương tự.
Khẳng định rằng: "Ớ An Nam cũng như mọi nơi khác, đều có thể ứng dụng nguyên tắc này: Điêu gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy những từ để nói ra".
Câu 4 trang 91 SGK văn 11 tập 2
Quan niệm của tác giả về mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước ngoài và ngôn ngữ nước mình:
Nguyễn An Ninh phê phán những kẻ học đòi Tây học nhưng không phủ nhận ngôn ngữ nước ngoài.
Theo ông, muốn nước mình độc lập, thì phải hiểu nước ngoài mà muốn hiểu được họ thì trước hết phải nắm được ngôn ngữ của họ.
Sự hòa hợp là vô cùng quan trọng: “sự cần thiết phải biết một ngôn ngữ châu Âu hoàn toàn không kéo theo chuyện từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, thứ tiếng nước ngoài mà mình học được phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình".
Câu 5 trang 91 SGK văn 11 tập 2
Khẳng định: "Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian" trong hoàn cảnh nước nhà đang bị thực dân thống trị thì hợp lí nhưng không hoàn toàn là đúng vì:
Bởi để giải phóng một quốc gia đang lệ thuộc, không chỉ có việc giữ gìn và làm phong phú văn hóa hay tiếng nói mà còn cần những cuộc cách mạng, đấu tranh vũ trang để triệt để đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi.