Bài tham khảo số 3
Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước, dân tộc Việt Nam đã có rất nhiều tác phẩm cổ vũ tinh thần đấu tranh của dân tộc. Một trong số đó là bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão. Tác phẩm đã thể hiện được tinh thần của thời đại nhà Trần. Đó là vẻ đẹp của hào khí Đông A, cũng như sức mạnh của con người và quân đội thời Trần.
Đầu tiên bài thơ “Tỏ lòng” (Thuật hoài) đã gợi ra hình ảnh người anh hùng thời đại nhà Trần với vẻ đẹp hùng tráng. Hình ảnh kỳ vĩ của người anh hùng cứu nước được khắc họa trên nền khí thế hào hùng của thời đại. Người anh hùng ấy thật mạnh mẽ, bền gan vững chí trong hành trình chiến đấu bảo vệ đất nước:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
(Múa giáo non sông trải mấy thu)
Con người hiện lên qua câu thơ này mang một tầm vóc, tư thế và hành động đầy lớn lao mạnh mẽ. Câu thơ cho thấy hình ảnh người anh hùng tay cầm ngọn giáo để chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước. Đồng thời, tác giả còn đặt người anh hùng vào không gian “giang sơn” - rộng lớn của đất nước và thời gian “kỷ thu” - vô tận, kéo dài từ năm này qua năm khác để tô đậm thêm tư thế hiên ngang của người anh hùng. Nếu so sánh với nguyên tác, phần dịch thơ vẫn chưa diễn tả được hết sức mạnh, vẻ đẹp của tráng sĩ. Vẻ đẹp của người anh hùng được thể hiện trong nguyên tác với cụm từ “hoành sóc”- chỉ hành động cầm ngang ngọn giáo. Còn ở bản dịch thơ mới chỉ dịch là “múa giáo” - cách dịch này chưa thể hiện được sự mạnh mẽ của người anh hùng. Không chỉ dừng lại ở đó, sự kì vĩ ấy càng hiện rõ trong mối quan hệ với không gian và thời gian: không gian mở ra theo chiều rộng của sông núi (giang sơn), thời gian được đo đếm bằng năm tháng (kháp kỷ thu).
Đặc biệt, vẻ đẹp của người anh hùng càng được nâng lên qua khí thế hào hùng của thời đại:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Với hình ảnh “Tam quân” có nghĩa là ba quân đã cho thấy đó là một quân đội tinh nhuệ, cả về số lượng lẫn chất lượng. Không chỉ vậy, Phạm Ngũ Lão còn làm rõ sức mạnh ấy bằng hình ảnh so sánh: “tì hổ” - sức mạnh như loài hổ, “khí thôn ngưu” - khí thế hào hùng ngút trời của quân đội nhà Trần đã làm lu mờ ánh sáng của sao Ngưu. Đó chính là sức mạnh của con người, quân đội nhà Trần. So sánh với nguyên tác, bản dịch là “nuốt trôi trâu” cũng chưa thể hiện được sức mạnh của quân đội nhà Trần. Tóm lại, hai câu thơ đầu tiên đã thể hiện được sự gắn kết chặt chẽ, mối quan hệ giữa người anh hùng với một thời đại anh hùng.
Không dừng lại ở đó, vẻ đẹp của người anh hùng còn hiện lên với một hoài bão, lý tưởng thật cao đẹp:
“Công danh nam tử còn vướng nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
Chuyện công danh đối với bất cứ đấng nam nhi nào cũng đều vô cùng quan trọng:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
(Nguyễn Công Trứ)
Theo tư tưởng Nho giáo, “công danh” chính là lập công để lưu danh vào sử sách, để lưu lại tiếng thơm cho đời sau. Đó chính là một món nợ lớn của bất kì đấng nam nhi nào thời xưa. “Công danh” đã trở thành lý tưởng đối với họ dưới trong triều đại phong kiến. Phạm Ngũ Lão là một người văn võ song toàn, nhưng vẫn luôn thấy bản thân còn mắc nợ - món nợ “công danh”. Nhà thơ đã mượn điển tích về nhân vật Vũ Hầu - một bề tôi trung thành nhất nhì trong lịch sử Trung Quốc để nói chí tỏ lòng. Khi nhắc đến điển tích này, Phạm Ngũ Lão tự cảm thấy “thẹn” - hổ thẹn với lòng khi chưa lập được công danh với đời. Qua đó, ta thấy được một nhân cách cao đẹp của nhà thơ, với hoài bão to lớn đáng ngưỡng mộ.
Với ngôn ngữ tráng lệ, Phạm Ngũ Lão đã gợi ra dáng vóc của những người anh hùng và quân đội nhà Trần. Đó là sức mạnh của “hào khí Đông A” từng nổi danh một thời.