Bài văn cảm nhận bài thơ "Chiều sông Thương" (Ngữ văn 7 - SGK Kết nối tri thức) số 5
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu,Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát.Người đến hát khi chèo đò kéo thuyền, vượt thác,Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
“Trăm dáng sông xuôi ấy” không chỉ đẹp trong tự nhiên mà còn trở thành những dòng sông gợi thương gợi nhớ trong trang văn, trang thơ của biết bao người nghệ sĩ. Đó là dòng Vàm Cỏ Đông trong thơ Hoài Vũ, dòng sông quê hương “xanh biếc” trong thơ Tế Hanh, là “sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh” trong thơ Hoàng Cầm, là dòng Đà giang “tuôn dài tuôn dài” trong tùy bút Nguyễn Tuân… là dòng Hương giang mềm như tấm lụa trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hữu Thỉnh cũng mang đến cho văn đàn một áng thơ đẹp mà cảm hứng được khơi nguồn từ dòng sông xứ Kinh Bắc: sông Thương. “Chiều sông Thương” được làm theo thể ngũ ngôn, với 32 câu thơ viết liền mạch, không dấu ngắt, tạo cảm giác cả bài thơ như dòng cảm xúc dào dạt tuôn trào chợt ùa về trong khoảnh khắc. Bối cảnh thời gian, không gian được gợi lên ngay từ nhan đề và những câu thơ đầu tiên: thời gian của cảm xúc là một buổi chiều thu, không gian là dòng sông Thương êm đềm, trù phú. Buổi chiều thường gợi thương gợi nhớ, nhất là với người con xa quê.
Vậy nên dù chưa “về tới ngõ” nhưng nhìn thấy dòng sông quê hương thân thuộc, bao nhiêu cảm xúc đã ùa về trong tâm trí nhà thơ. Hình như với mỗi người, dòng sông quê hương thường để lại những suy tư và xúc cảm sâu lắng. Nên không phải ngẫu nhiên mà có biết bao áng thơ hay được viết lên từ hình ảnh quen thuộc, thân thương ấy. Với mỗi người, dòng sông quê hương mình lại đẹp theo một cách. Trong cảm nhận của Hữu Thỉnh, sông Thương là dòng sông thơ mộng chảy hiền hòa giữa một một miền quê trù phú:
Đi suốt cả ngày
Thu vẫn chưa về tới ngõ
Dùng dằng hoa Quan họ…
Đã trăng non múi bưởi
Bên cầu con nghé đợi
Cá chiều thu sang sông
Vẻ đẹp của dòng sông được tạo nên qua những nét vẽ đặc sắc: Hoa quan họ. Nào ai biết “hoa quan họ” là hoa gì? Chỉ khi chạm vào sắc tím trong câu thơ tiếp theo, ta mới hình dung đó chính là sắc tím của lục bình – một nét vẽ quá đỗi thân thương, mềm mại.
Những chùm lục bình tím trôi đi giữa dòng nước êm đêm: “Nước vẫn nước đôi dòng/chiều vẫn chiều lưỡi hái”. Cảnh vật “vẫn” như xưa, vẫn tồn tại trong sự vĩnh hằng muôn thuở của nó mà sao gợi thương, gợi nhớ nhiều đến thế?
Nét thi vị trong cách biểu đạt của Hữu Thỉnh là ở độ “nhòe mờ” của ý nghĩa lời thơ. “Chiều lưỡi hái” là buổi chiều như thế nào? “Những gì sông muốn nói/cánh buồm đang hát lên” - là điều những gì vậy? Thật khiên cưỡng nếu ta áp đặt cho những câu thơ này một nét nghĩa cụ thể nào đó. Ta chỉ có thể cảm nhận được qua tiếng “hát” kia là hình ảnh một dòng sông vui tươi, trù phú - dòng sông mang phù sa bồi đắp cho mùa màng của mảnh đất Kinh Bắc; mang những con thuyền căng buồm xuôi ngược muôn nơi.
Bức tranh chiều sông Thương tiếp tục được điểm tô bởi những nét vẽ thật đẹp: Hình ảnh từng đám mây rủ bóng xuống dòng sông gợi lên một khung cảnh thanh bình, yên ả. Chữ “rủ” không mang cảm giác buồn bởi nó xuất hiện trong văn cảnh cùng hàng loạt những hình ảnh đẹp khác: Lúa củi mình giấu quả/ruộng bởi con gió xanh/nước màu đang chảy ngoan/giữa lòng mương máng nổi/mạ đã thò lá mới/trên lớp bùn sinh sang.. Trong dáng củi mình của bông lúa giấu quả là niềm vui một vụ mùa bội thu; trong hai chữ “ruộng bời” là hình ảnh của cả cánh đồng tươi tốt; trong màu nước chảy ngoan là phù sa màu mỡ đắp bồi; trong màu mạ xanh non đang thò là mới trên lớp bùn sinh sang là sự sống mới đang tiếp tục vận động, sinh sôi.
Tất cả những gì mà nhà thơ hi vọng, mong ước cho quê hương đều đã, đang và sẽ thành hiện thực: “Những gì ta gửi gắm/sắp vàng hoe bốn bên”. Mong ước quê hương giàu đủ, thịnh vượng là nỗi niềm đau đáu của những người con xa quê luôn thiết tha với quê hương, xứ sở. Và giờ đây, khi chứng kiến cảnh sắc, mùa màng quê hương đang độ căng tràn, màu mỡ, nhà thơ không khỏi xồn xang, hạnh phúc. Câu thơ bật lên như một tiếng reo vui – niềm vui của ước mơ đang dần trở thành hiện thực. Hình ảnh hoán dụ “vàng hoe” cùng từ chỉ không gian “bốn bên” gợi nhiều hơn mấy tiếng ngắn gọn, đơn sơ ấy. Đó là hình ảnh của những cánh đồng mênh mông bất tận sáng tươi trong sắc vàng óng ả, cũng là hình ảnh của mùa màng tươi tốt bội thu.
Những câu cuối của bài thơ như khúc hát hân hoan, dào dạt ngân lên từ tâm hồn, trái tim của người con xa quê nay trở về chứng kiến quê nhà đang dạt dào sức sống: “Ôi con sông màu nâu/ỗi con sông màu biếc (Dâng cho mùa sắp gặt /Bồi cho mùa phôi thai”. Cảm xúc thơ rung lên trong tiếng “Ôi” lặp lại đến hai lần. Dù đó là con sông nặng phù sa “nâu” mùa nước nổi hay con sông trong veo màu “biếc” độ thu về, thì đều là dòng sông mang sự sống đến với mảnh đất nơi đây. Hai tiếng “dâng”, “bồi” gói trọn tình yêu mà con sông dành cho đất và người Kinh Bắc.
Dòng sông ấy đã “dâng” cho mùa sắp gặt và sẽ “bồi” cho mùa đang “phôi thai” bằng tất cả mỡ màng phù sa mà con sông chắt chiu nơi thượng nguồn mang tới.