Bài văn phân tích nhân vật Hộ số 6
Nam Cao là nhà nhân đạo lớn, cây bút hiện thực có tầm ảnh hưởng bậc nhất của nền văn học Việt Nam. Bằng tài năng và vốn am hiểu sâu sắc về cuộc sống và số phận của những người nông dân, người trí thức nghèo trong xã hội đương thời, Nam Cao đã khám phá ra nhiều hiện tượng, bi kịch mang tính thời đại. Đời thừa là truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao viết về chủ đề người trí thức với bi kịch tinh thần của con những người trí thức có hiểu biết, ý thức sâu sắc về giá trị của sự sống, có hoài bão cao cả nhưng bị cuộc sống đẩy vào cảnh sống thừa.
Hộ là nhân vật trung tâm của tác phẩm, là nhân vật đại diện cho những người trí thức nghèo sống trong xã hội xưa. Thông qua nhân vật Hộ độc giả còn thấy được bóng dáng của Nam Cao, một người trí thức nhiều trăn trở về cuộc đời về sự nghiệp sáng tác của bản thân. Trong xã hội đen tối đương thời, người trí thức không có môi trường để thỏa mãn những lí tưởng, đam mê sáng tạo mà bị vùi dập bởi những lo toan vặt vãnh, những gánh nặng của cuộc sống đời thường. Đây cũng là nguyên nhân đẩy những người trí thức nghèo vào bi kịch đời thừa.
Hộ là một người trí thức nghèo có ý thức sâu sắc về nghề nghiệp, Hộ tự đặt ra những yêu cầu nghiêm khắc trong việc sáng tác văn chương, anh khao khát sáng tác được những tác phẩm có giá trị, có sức lay động lớn lao đối với độc giả, đó là tác phẩm “phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng… Nó làm cho người gần người hơn… Một tác phẩm thật giá trị phải là một tác phẩm chung cho cả loài người “.
Phân tích nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa của nhà văn Nam Cao đối với Hộ, sáng tác văn chương không nhằm mục đích kiếm tiềm mà để thỏa mãn lí tưởng nghệ thuật, với Hộ, giá trị văn chương có thể vượt trên trên những thứ vật chất thông thường “Đọc được câu văn hay mà hiểu được thì dẫu ăn một món ngon đến đâu cũng không thích bằng”. Tuy nhiên, hiện thực cuộc sống đói nghèo với gánh nặng cơm áo gạo tiền đã buộc Hộ đi ngược với lí tưởng, nguyên tắc sáng tác ban đầu. Những tác phẩm của Hộ không còn được đầu tư, chăm chút mà được viết hàng loạt nhưng cẩu thả, không có giá trị, sự thật này khiến cho Hộ không thôi đau đớn, day dứt tự trách mình “ Sự cẩu thả trong bất cứ nghề nào cũng là một sự bất lương. Sự cẩu thả trong văn chương thì thật đê tiện”.
Trong tư cách của một nhà văn, Hộ là người trí thức có ý thức, trách nhiệm với nghề nghiệp, trong tư cách của một con người, Hộ là người giàu tình cảm, sống theo nguyên tắc tình thương. Với tình thương ấy Hộ đã chấp nhận cưu mang mẹ con Từ, nuôi dưỡng người mẹ già yếu của Từ mà không màng đến những gánh nặng gia đình cũng như điều tiếng của xã hội.
Từ khi lấy Từ, cuộc sống của Hộ dần thay đổi, đặc biệt là khi những đứa con lần lượt ra đời. Hộ không còn thời gian để thực hiện hoài bão của mình mà lại bị cuốn vào vòng xoay của cơm áo gạo tiền. Hộ không thể tập trung sáng tác, thực hiện giấc mơ nghệ thuật của mình khi những đứa con bị bỏ đói, bị bệnh mà không có tiền thuốc thang chạy chữa. Trách nhiệm của người đàn ông trong gia đình đã buộc Hộ viết ra những thứ văn chương tầm thường mà mỗi lần đọc lại Hộ đều đỏ mặt xấu hổ.
Hộ bị đặt trong bi kịch tinh thần khủng khiếp giữa sự giằng xé của lí tưởng nghệ thuật với nguyên tắc tình thương mà Hộ luôn theo đuổi. Quá đau khổ, bế tắc Hộ đã tìm đến rượu, trong cơn say Hộ đã có hành động đánh đập, chửi bới tàn nhẫn đối với Từ, coi mẹ con Từ là nguyên nhân khiến cho Hộ phải khổ. Sau khi tỉnh rượu Hộ ý thức được hành động tàn nhẫn của mình nên đã rất hối hận và cho rằng mình là kẻ khốn nạn. Đứng trước bi kịch đời thừa, Hộ có thể tự giải thoát cho mình bằng cách từ bỏ trách nhiệm với vợ con để tập trung thực hiện lí tưởng cao cả nhưng tinh thần trách nhiệm, tình thương không cho phép Hộ làm vậy nên đã đẩy Hộ vào bi kịch không lối thoát.
Như vậy, thông qua nhân vật Hộ, nhà văn Nam Cao đã khai thác đến tận cùng tấn bi kịch của những người trí thức tiểu tư sản nghèo, họ là người có lí tưởng, có ước mơ cao cả nhưng bị xã hội phong kiến ngột ngạt đẩy đến bước đường cùng, tuyệt vọng vùng vẫy trong sự bế tắc, đau khổ.