Bài văn suy nghĩ về số phận Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên số 2

Xuôi dòng văn học hiện thực Việt Nam những năm 1930- 1945, nếu nói Ngô Tất Tố là cây cổ thụ khai sáng cho thể loại này thì Nam Cao lại chính là người đưa chúng đến đỉnh cao nghệ thuật. Để làm nên sự thành công của Nam Cao, phải kể đến tác phẩm “Lão Hạc” đã khắc họa xuất sắc hình tượng người nông dân với số phận bất hạnh nhưng vẫn sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp.


Những năm nửa đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp cơ bản hoàn thành xong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Xã hội Việt Nam có nhiều biến động, chia thành nhiều giai cấp mà trong đó, khổ cực nhất vẫn là người nông dân. Cuộc sống làng quê bị bao trùm bởi cái đói, miếng ăn và nước mắt. Khi ấy, giữa những tiếng khóc oan trái “kêu trời không thấu” ấy, Nam Cao đã cất ngòi bút, nói hộ nỗi lòng và tình cảm biết bao nhiêu người dân bấy giờ. Tác phẩm “Lão Hạc” ra đời trong hoàn cảnh đó. Nhân vật lão Hạc được nhìn nhận và miêu tả qua cái nhìn và tấm lòng của nhân vật ông giáo.


Trước hết, lão Hạc hiện lên với số phận bi đát, cuộc đời bất hạnh. Cũng như bao người nông dân khác, cuộc đời lão Hạc bị bủa vây bởi trong sự nghèo đói. Không có ruộng cày, toàn bộ gia tài của lão chỉ có con chó và một mảnh vườn. Nhưng mảnh vườn ấy cũng còm cõi, xơ xác, hoa màu chỉ đủ cho lão bòn mót. Cho nên lão phải làm thuê, làm mướn, đem sức mình đổi lấy miếng. Rồi sự túng quẫn ngày càng đe dọa lão. Sau một trận ốm kéo dài hai tháng mười tám ngày, “lão yếu đi ghê lắm, tiền bấy lâu nay dành dụm đều cạn kiệt, lão lại không có việc làm. Rồi bão đến, phá sạch sành sanh hoa màu trong vườn, giá gạo thì cứ đẩy cao mãi lên. Cái đói, cái nghèo cứ đeo đẳng, để đến một lúc lão cũng phải thốt lên: “Cái kiếp chỉ nhỉnh hơn kiếp một con chó”.


Đã nghèo, cuộc sống của lão Hạc còn bị bủa vây bởi số phận bất hạnh. Vợ mất sớm, lão một mình gà trống nuôi con. Nhưng sợi dây tình cảm ấy cũng không giữ được mãi. Chính cái nghèo đã khiến lão bó tay trước hạnh phúc không thành của đứa con trai độc nhất. Cái nghèo không cho lão dựng vợ cho con để trọn đạo làm cha. Cũng vì thế mà anh con trai phải bỏ đi đồn điền cao su. Thế là cái nghèo cũng cướp luôn đứa con trai khỏi tay lão. Kể với ông giáo mà nước mắt lão ngân ngấn: “Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi nữa?” Câu nói của lão đã nhói lên một nỗi đau bởi nó đã khái quát cả một đời người trong xã hội cũ. Anh con trai đi biền biệt, lão sống thui thủi một mình trong nỗi buồn ngày đêm chồng chất, chỉ có con Vàng làm bạn. Vậy mà tình cảnh thiếu thốn quẫn đã buộc lão phải chia tay với nó, chia ta với niềm vui, niềm an ủi cuối cùng của mình. Và có lẽ đây cũng chính là giây phút đau đớn nhất của lão. Nỗi bất hạnh chưa dừng ở đó. Sau những ngày ăn khoai, củ chuối, sung luộc,… cuộc sống bế tắc, cùng quẫn đã đẩy lão đến cái chết bằng bả chó. Cái chết vô cùng dữ dội và bi thảm: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết.” Lão đang ở đỉnh cao của cuộc hành xác. Chính nghèo khổ đã đẩy lão đến cái chết thảm khốc chưa từng thấy. Như vậy, không miêu tả quá nhiều, chỉ với một nét chấm phá đã đủ đặc tả cuộc sống thấm thía kiếp nghèo tủi nhục của người nông dân lớp bần cùng hóa. Hiện tại thì cùng quẫn, tương lai thì mịt mờ không lối thoát. Liệu còn gì đau khổ hơn, đen tối hơn những gì mà người nông dân xưa phải chịu?


Dù hoàn cảnh cùng quẫn, số phận bất hạnh nhưng chính trong cảnh đời thê thảm ấy, ta thấy bừng sáng lên vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của người nông dân xưa. Lão Hạc hiện lên là ngươi nông dân giàu tình yêu thương con sâu sắc. Khi không đủ tiền cưới vợ cho con, “lão thương con lắm nhưng biết làm sao được”. Đó là tình yêu thương con đầy bất lực của người cha nghèo. Sau đó, anh con trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Một lần nữa, nỗi đau mất con của người cha “chỉ biết khóc chứ còn biết làm thế nào nữa”. Tiếng khóc của nỗi đau bất lực khi để đứa con tuột khỏi tay mình. Đến khi con đi, lão tự xóa đi quyền sở hữa của mảnh đất để làm thuê. Bởi lão nghĩ “vườn của mẹ nó tậu thì nó hưởng”. Đến cảnh bần cùng, lão vẫn nghĩ cho con: “tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ tổ chết nó”. Cũng vì con, lão đã bán đi đứa con tinh thần của mình- cậu Vàng đã sớm hôm bên cạnh. Để rồi cuối cùng, lão đã tuyên sinh bằng bằng bả chó để bảo toàn hạnh phúc cho đứa con, vì con. Không được học hành, không biết chữ nghĩa nhưng cái chết dữ dội của lão chính là minh chứng cảm động về tình phụ tự nguyên sơ, mộc mạc mà thiêng liêng nhường nào.


Không chỉ là một người cha yêu thương con hết mực, lão còn là một người nông dân chất phác, hiền lành, nhân hậu. Đó là cái tình của lão đối với cậu Vàng được ghi lại qua những con chữ xúc động. Lão gọi nó là cậu Vàng “như bà mẹ hiếm hoi gọi đứa con cầu tự, lão bắt rận, mắng yêu, tắm cho nó. Lão coi nó nhưng đứa cháu, bạn hiền trong nhà mà thương yêu. Để rồi khi bán chó, lão chìm xuống đáy của bể bi kịch. Lương tâm của ông lão đau nhói, lão đã khóc vì trót lừa một con chó: “tôi già bằng này tuổi đầu mà còn đánh lừa một con chó”. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu và trong sạch thì ông lão mới bị dày vò đau đớn như thế.


Đặc biệt, dù là người nông dân nghèo, ở lão Hạc vẫn sáng ngời lòng tự trọng. Dù phải sống với cái đói deo đói dắt, ăn những món ăn tự chế nhưng lão vẫn từ chối sự giúp đỡ của ông giáo gần như là hách dịch. Đó là một lão nông dân còn tiền nhưng lại gửi ông giáo để khi lão chết có tiền làm ma, không muốn làm phiền đến hàng xóm. Lòng tự trọng không cho phép lão làm phiền đến người khác. Cuối cùng, lão phải quyên sinh bằng bả chó. Lòng tự trọng không cho phép lão làm trái với lương tâm của mình: “đói cho sạch, rách cho thơm”. Không giàu sức mạnh phản kháng như chị Dậu nhưng sự phản kháng, đấu tranh với chính mình mới là cuộc chiến khốc liệt nhất. Cái đói khiếp thật, miếng ăn quý thật nhưng vì nó mà đánh đổi nhân cách thì thật đáng buồn. Lão đã chọn cái chết để bảo toàn nhân cách trong khi đã có biết bao nhiêu người ngã khuỵu trước miếng ăn: những Chí Phèo, Binh Tư, bà cái Tí, … Đó chính là vẻ đẹp tiềm ẩn trong người dân nghèo.

Như vậy, Nam Cao đã khắc họa thành công hình tượng lão Hạc qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sinh động với những dòng trạng thái phức tạp, đối nghịch mà rất biện chứng. Cái mới của Nam Cao còn là đã học được ở phương Tây nghệ thuật xây dựng nhân vật nghịch dị có sự đối lập với tính cách. Nhân vật lão Hạc được soi chiếu qua nhiều cái nhìn và góc độ khác nhau. Nam Cao còn gây ấn tượng bởi cách đảo ngược dòng thời gian kể. Qua hình tượng lão Hạc, Nam Cao đã khắc họa thành công những số phận đau khổ, bất hạnh trong xã hội cũ mà cội nguồn của nó chính là sự thối nát, bất công của xã hội cũ. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, họ vẫn sáng lên chất “người”. Chưa từng đọc sách thánh hiền, không được đi học nhưng cả cuộc đời và vẻ đẹp của họ chính là minh chứng cảm động và đầy đủ nhất về nhân cách con người. Đó chính là thái độ trân trọng, ngợi ca, niềm tin của tác giả dành cho người nông dân. Đó cũng chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.


Ngày nay, cuộc sống nghèo đói, buồn đau đã đi vào dĩ vãng. Nhưng mỗi lần đọc “Lão Hạc” ta càng thấy xót xa cho ông cha ta thuở trước, thêm tin yêu cuộc sống mới.

Bài văn suy nghĩ về số phận Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên số 2
Bài văn suy nghĩ về số phận Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên số 2

Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy