Bài văn tham khảo số 1
Có lẽ ai ai trong chúng ta cũng đều từng nghe câu nói:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.”
Vâng đó chính là quan niệm văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu-một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp văn học đồ sộ của ông đã để lại dấu ấn và những bài học sâu sắc cho mai hậu.
Nguyễn Đình Chiểu tên tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ(1882-1888). Ông sinh tại quê mẹ làng Tân Thới, phủ Tân Bình huyện Bình Dương tỉnh Gia Định. Năm 1833 ông được cha đưa ra Huế học, nhờ đó ông đã có điều kiện tiếp thu một cách bài bản kiến thức. Đến năm 1849 ông chuẩn bị ra thi tiếp tú tài thì nghe tin mẹ mất, trên đường về vì quê thương tiếc người mẹ quá cố mà khóc thương dẫn đến đôi mắt ông bị mù. Qua đây có thể thấy được tấm lòng hiếu thảo mênh mông của Nguyễn Đình Chiểu, tuy bị mù những trái tim nhân đạo chính là đôi mắt sáng của các sáng tác của ông. Sau đó ông làm nghề dạy học và bán thuốc, đồng thời tham gia kháng chiến cùng với nhân dân, chính vì thế ông đã có những tình cảm sâu nặng và tha thiết gắn bó với đời sống của những người dân manh lệ, nên những trang văn, trang thơ của ông thấm đẫm tinh thần nhân văn, nhân đạo cao cả bằng việc ngợi ca và trân trọng sức mạnh của người nông dân và xót thương cho sự hi sinh của họ. Ông mất năm 1888 vì khi giặc Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây, ông tỏ thái độ không hợp tác, buồn rầu đau ốm ông đã qua đời.
Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đều chan chứa một tấm lòng yêu nước tha thiết, bỏng cháy gắn với những niềm căm phẫn về chế độ cũ. Ông là nhà thơ có quan niệm văn chương nhất quán. Ông chủ trương dùng văn chương biểu hiện đạo lý và chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để "chở đạo, sửa đời và dạy người". Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bằng, rạch ròi, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân, yêu nước của ông:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dác bay.”
Những câu thơ chan chứa một sự xót xa sâu sắc đến quặn thắt cho số phận của những người dân đen tội nghiệp. Đồng thời bày tỏ lòng căm phẫn xót xa với kẻ thù xâm lược đã giày xéo lên mảnh đất của dân tộc. nhưng cao hơn cả tấm lòng nhân đạo, là một sự khắc khoải khôn nguôi:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Không chỉ vậy, qua các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu ông còn bày tỏ quan niệm của mình về những đạo lí tốt đẹp của dân tộc: Coi trọng tình nghĩa giữa người với người: tình cha con, mẹ con, tình nghĩa vợ chồng, bè bạn, tình yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người gặp khó khăn, hoạn nạn. Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy (Vân Tiên đánh cướp, Hớn Minh bẻ giò Đặng Sinh). Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời thông qua kết thúc có hậu của tác phẩm là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà. Các quan điểm này đã được thể hiện rất rõ trong các truyện như Lục Vân Tiên. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu rất đồ sộ.
Nhưng có thể thấy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nổi bật một số nét sau: Ông thường dùng chữ Nôm, và bằng ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi cảm, khiến cho tác phẩm của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam. Ông là nhà thơ đầu tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân trong văn học Việt, đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người anh hùng Nam Bộ tiên phong trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược. Ông đề cao tư tưởng Nho gia, xem ra có vẻ bảo thủ. Song điều đáng chú ý là các tư tưởng ấy mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn, khởi đầu cho một thời đại văn chương sử thi mới sau này.
Như vậy có thể thấy được rằng, Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa của nhân dân. Ông không chỉ là người con có hiếu, người thầy mẫu mực, người chiến sĩ yêu nước mà còn là một cây bút có công lớn trong việc viết văn tuyên truyền cổ vũ chiến đấu.