Top 7 Bài văn phân tích cơ sở pháp lí của Tuyên ngôn Độc lập (Ngữ văn 12) hay nhất

Thai Ha 1751 0 Báo lỗi

Trong lịch sử văn học cũng như lịch sử dựng nước, giữ nước, chúng ta đã có ba bản tuyên ngôn độc lập: “Nam quốc sơn hà” (Lý Thường Kiệt), “Đại cáo bình Ngô” ... xem thêm...

  1. Trong lịch sử văn học cũng như lịch sử dựng nước, giữ nước, chúng ta đã có ba bản tuyên ngôn độc lập: “Nam quốc sơn hà” (Lý Thường Kiệt), “Đại cáo bình Ngô” (Nguyễn Trãi) và đặc biệt là “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh. Đánh giá về giá trị của tác phẩm, các ý kiến đều thống nhất khi nhận định “Tuyên ngôn độc lập” vừa là một văn kiện lịch sử vô giá, vừa là một mẫu mực của văn chính luận. Phần nêu cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn cho bản tuyên ngôn là minh chứng tiêu biểu cho mẫu mực của nghệ thuật lập luận đó.


    Ở phần mở đầu của bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã nêu những cơ sở pháp lý cho bản tuyên ngôn. Cụ thể, Người đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Mĩ và Pháp để làm căn cứ khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc. Bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sau này bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp” năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi”.


    Cả hai bản tuyên ngôn này đều khẳng định lẽ phải về quyền con người. Đó là hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới thế kỉ XVIII - di sản tư tưởng của nhân loại. Từ lẽ phải về quyền con người, Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền dân tộc: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.


    Tác giả đã giúp thế giới hiểu rằng các dân tộc dù da đen hay da trắng, da đỏ hay da vàng đều bình đẳng như nhau vì tất cả họ đều là con người. Cách lập luận của Hồ Chí Minh thật khôn khéo vì tác giả đã sử dụng thủ pháp “gậy ông đập lưng ông” khi dùng lời của Pháp và Mĩ để nói với chính họ. Trong tranh luận không gì thú vị bằng dùng chính lời của đối phương để bác bỏ đối phương khiến họ rơi vào tình trạng “há miệng mắc quai”. Bác đã dùng cây gậy độc lập để đánh vào lưng những kẻ chuyên đi xâm lược, làm đổ máu và nước mắt của đồng loại mà cứ rêu rao về quyền tự do, bình đẳng.


    Dẫn lời của Mĩ và Pháp lên đầu bản tuyên ngôn, người viết tỏ ra trân trọng, đề cao những tuyên ngôn thuộc về lẽ phải… vì thế tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân trên thế giới, đặc biệt là dư luận tiến bộ ở Pháp và Mĩ. Mặt khác, Hồ Chí Minh đã gián tiếp đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang tầm nhau nhằm thể hiện niềm tự hào dân tộc. Cách lập luận ấy còn rất kiên quyết bởi mượn lời của Pháp và Mĩ, Bác đã ngầm cảnh cáo với bọn đế quốc thực dân rằng: Nếu chúng tiếp tục xâm lược Việt Nam có nghĩa là chúng đã phản bội lại truyền thống tư tưởng tốt đẹp của dân tộc, vấy bẩn lên lá cờ tự do bình đẳng bác ái mà cha ông họ đã từng giương cao. Hành động phi nghĩa ấy sẽ là nguyên nhân đẩy chúng vào kết cục bi thảm. Cách lập luận ở phần mở đầu của bản tuyên ngôn độc lập thật chặt chẽ, thuyết phục và sáng tạo. Đoạn văn mở đầu hết sức ngắn gọn, súc tích: chỉ có hai câu trích dẫn, một lời bình luận suy rộng ra, một lời khẳng định: “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” đã làm nổi bật cơ sở pháp lý vững chắc về quyền sống, quyền tự do dân tộc, tiêu biểu cho vẻ đẹp mẫu mực của văn chính luận Hồ Chí Minh. Nó như phát súng thổi bùng lên phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa trên thế giới.


    Phần hai của bản tuyên ngôn lại làm nổi bật những cơ sở thực tiễn cho lời tuyên bố độc lập. Trước hết, Người đã lập ra một bản cáo trạng những tội ác của thực dân Pháp để phủ nhận công lao “khai hóa”, “bảo hộ” của chúng. Pháp nêu chiêu bài có công “khai hóa” ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng để hợp thức hóa việc quay trở lại Đông Dương và Việt Nam.


    Hồ Chí Minh đã tố cáo tội ác về cả chính trị và kinh tế để đập tan luận điệu xảo trá, bịp bợm ấy: “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man… làm nòi giống ta suy nhược”. Còn về kinh tế, chúng đã “bóc lột dân ta đến tận xương tủy… bóc lột công nhân một cách vô cùng tàn nhẫn”.


    Pháp nêu chiêu bài có công “bảo hộ” Việt Nam, thì Hồ Chí Minh đã tố cáo những tội ác về quân sự để bác bỏ “công lao” đó của chúng: đó là khi phát xít Nhật xâm lăng Đông Dương, thực dân Pháp đã “quỳ gối đầu hàng mở cửa nước ta rước Nhật” và chỉ trong hai năm, Pháp đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Khi thua trận, bị tước khí giới bởi Nhật, chúng còn nhẫn tâm giết hết số đông tù chính trị tại Cao Bằng. Bằng những lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép, dẫn chứng thật xác thực, ta có cảm giác Hồ Chí Minh đang lật lại bánh xe lịch sử để quay lại những tư liệu hết sức chân thực mà kẻ thù không thể chối cãi trong suốt 80 năm đô hộ Việt Nam. Tội ác ấy đã khiến cho hai triệu đồng bào ta chết đói, 95% dân số mù chữ,…


    Ngôn ngữ và những hình tượng nghệ thuật được Người sử dụng vừa chính xác vừa truyền cảm: “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Câu văn cho thấy tội ác dã man của giặc, hành động đàn áp được diễn đạt bằng động từ “tắm” đã cho thấy bộ mặt thật của bọn thực dân khát máu, tàn bạo, đồng thời diễn tả được nỗi đau thê thảm của người dân mất nước đang quằn quại trong những “bể máu” đau thương. Thủ pháp điệp từ, điệp kiểu câu cũng được sử dụng vô cùng đắc địa. Những câu văn mở đầu bằng từ “chúng” nặng như búa tạ giáng xuống đầu kẻ thù và gợi trong tim ta nỗi đau xót nhức nhối. Nghệ thuật liệt kê kết hợp với những động từ mạnh đã hệ thống hàng loạt những tội ác chồng chất mà thực dân Pháp đã gây ra cho mọi tầng lớp từ dân cày đến dân buôn, công nhân đến các nhà tư sản. Đó là tội ác mà “Trúc Lam Sơn không ghi hết tội/ Nước Đông Hải không rửa sạch mùi” (Nguyễn Trãi).


    Không chỉ có thế, bản tuyên ngôn còn phản ánh quá trình đấu tranh giành độc lập, khẳng định tư thế chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Dân tộc Việt Nam không những có quyền hưởng tự do độc lập mà thực tế đã giành được quyền tự do độc lập. Trước hết, nhân dân Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập. Trong bao nhiêu năm qua, Việt Nam đã là dân tộc chịu nỗi đau xâm lược, còn Pháp là kẻ thù đi xâm lược. Nếu thực dân Pháp đã hèn hạ phản bội lại Đồng Minh, dâng Đông Dương cho Nhật thì nhân dân ta đã anh dũng đứng về phía Đồng Minh chống phát xít. Nếu thực dân Pháp hèn nhát, phản động, vô nhân đạo thì chúng ta luôn giữ thái độ khoan hồng, nhân đạo: “giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”. Đó là những việc làm cao thượng, những cử chỉ nhân nghĩa xứng đáng với truyền thống cao đẹp của dân tộc:

    “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

    Lấy chí nhân để thay cường bạo”

    (Bình Ngô đại cáo).


    Không chỉ có vậy, Việt Nam đã thực sự giành được quyền tự do, độc lập. Việt Nam đã không còn là thuộc địa của Pháp vì Pháp đã bán rẻ chúng ta cho Nhật. Và sau đó, nhân dân ta trong cuộc Cách mạng tháng tám đã giành chính quyền từ tay Nhật, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh bền bỉ với những hi sinh xương máu. Câu văn “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị…” đã cho thấy ba kẻ thù bị đánh bại: thực dân, phát xít và phong kiến. Chín chữ ngắn gọn đã khái quát được gần một nghìn năm lịch sử với những sự kiện trọng yếu của dân tộc. Pháp hoảng hốt bỏ chạy, Nhật quỳ gối đầu hàng, Bảo Đại thì hai tay run rẩy trao ấn kiếm cho chính quyền Cách mạng, tất cả rác rưởi đã được quét dọn cho một quốc gia mới ra đời. Để khẳng định quyền dân tộc, Người đã sử dụng rất nhiều thủ pháp: điệp ngữ, điệp cấu trúc (những câu văn bắt đầu bằng cấu trúc “sự thật là…”) vang lên một cách dõng dạc vừa khẳng định sự thực, vừa khẳng định chân lý. Hàng loạt các dẫn chứng xác thực không thể chối cãi được như tái hiện trước mắt chúng ta những chặng đường bi thương hào hùng của dân tộc.


    Việc nêu những cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn làm cơ sở cho lời tuyên ngôn độc lập là một công việc khó khăn nhất, rất khó để làm được một cách khôn khéo, thuyết phục nhưng Hồ Chí Minh đã xử lý một cách khéo léo bằng những lập luận trí tuệ, sắc sảo, đầy sức thuyết phục. Cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn đã chứng minh “Tuyên ngôn độc lập” là áng văn chính luận mẫu mực, thể hiện được tài năng của người con ưu tú của dân tộc Việt Nam - chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

  2. “Nắng Ba Đình mùa thuThắm vàng trên Lăng BácVẫn trong vắt bầu trờiNgày Tuyên ngôn Độc lập.”

    Mỗi lần đọc bài thơ “Nắng Ba Đình”, lòng tôi lại nao nao xúc động nhớ những thước phim tài liệu về ngày Quốc khánh mùng 2 tháng 9 năm 1945 - ngày đánh dấu một sự kiện lớn trong lịch sử của dân tộc ta. Tôi chợt bắt gặp một vầng trán cao rộng, một ánh mắt nheo cười, Bác Hồ đang bước lên lễ đài cùng với giọng nói ấm áp, thân mật: “Hỡi đồng bào cả nước!”.


    “Tuyên ngôn Độc lập” mở đầu bằng những câu văn hết sức giản dị, mộc mạc như vậy mà vẫn chứa chan tình cảm yêu thương, vẫn gợi không khí thật thiêng liêng. Hai tiếng “đồng bào” thật gần gũi, thân mật, vừa chứa chan tình yêu thương ruột thịt, vừa khơi dậy niềm tự hào, khơi dậy cội nguồn linh thiêng của dân tộc: Con Rồng, cháu Tiên. Trên thế giới này, có lẽ chỉ riêng dân tộc ta là cùng sinh ra từ bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ.


    Có thể nói, vấn đề cơ bản và quan trọng nhất trong phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập” chính là xác lập cơ sở pháp lý. Cơ sở pháp lý ban đầu của Tuyên ngôn Độc lập, đó là những quyền không ai có thể chối cãi được. Những lời ấy được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập ở Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp. Đó là quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lấy những lời bất hủ được ghi rành rành trong hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ” và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp” đã được cả thế giới công nhận làm cơ sở pháp lý vô cùng vững chắc cho bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, đã được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của Việt Nam. Cách lập luận của tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết. Bác đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để phủ nhận chính âm mưu xâm lược của hai cường quốc này. Qua thủ pháp nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”,dường như tác giả đã ngầm cảnh cáo nếu Pháp xâm lược Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành chân lý ghi trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.


    Từ cơ sở pháp lý ban đầu là quyền của con người Hồ Chí Minh đã suy rộng theo tính chất bắc cầu khẳng định quyền dân tộc. Người dõng dạc khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sự phát triển từ quyền con người, quyền dân tộc là suy luận hết sức thông minh và chặt chẽ. Đó còn là một sáng tạo có ý nghĩa to lớn, một cống hiến vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh cho dân tộc Việt Nam và cả nhân loại. Sự phát triển ấy chẳng những là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX. Mà còn là phát súng hiệu thức tỉnh kêu gọi các dân tộc bị áp bức trên thế giới vùng lên đấu tranh để giải phóng độc lập tự do.


    Khép lại phần mở đầu là câu văn chắc nịch đanh thép. Người khẳng định mọi quyền lý lẽ chính đáng của con người, dân tộc là những “lẽ phải không ai chối cãi được”. Đây chính là bức tường pháp lý sừng sững, là tiền đề triển khai toàn bộ nội dung bản Tuyên ngôn Độc lập ở phần tiếp theo. Câu văn này cũng thể hiện tính luận chiến quyết liệt của ngòi bút Hồ Chí Minh. Người ngầm cảnh báo với kẻ thù xâm lược, chúng không thể phủ nhận những lí lẽ, chân lý mà toàn thế giới đã công nhận.


    Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, Tuyên ngôn Độc lập đã đưa ra căn cứ, lý lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình dẫn dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ. Vậy là ngay từ phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng tỏ tài năng lập luận bậc thầy, sự sâu sắc trong tư tưởng, lí lẽ sắc bén, ngôn ngữ đanh thép hùng hồn tạo nên sức mạnh luận chiến bất ngờ và sức hấp dẫn kỳ lạ của đoạn văn.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Xuyên suốt nền văn học Việt Nam, có những văn kiện ra đời nhằm phục vụ mục đích chính trị, quân sự, nhưng đồng thời cũng trở thành những tác phẩm văn học mẫu mực xứng tầm kiệt tác. "Tuyên ngôn độc lập" ra đời vào năm 1945 là một trong những tác phẩm thể hiện rõ điều này. Bằng ngòi bút sắc bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiến tạo nên một áng văn chính luận mẫu mực. Điều này đã được thể hiện rõ ngay từ phần mở đầu của tác phẩm.


    Trong phần đầu tiên của tác phẩm, tác giả đã nêu lên nguyên lí chung của bản tuyên ngôn thông qua việc trích dẫn hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 với nội dung chính là khẳng định các quyền lợi cơ bản của con người. Đó là quyền sống, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc", "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Hai bản tuyên ngôn mà Người trích dẫn không chỉ đóng vai trò là dẫn chứng của áng văn chính luận mà còn thể hiện rõ dụng ý nghệ thuật đầy sâu sắc. Đặt vào hoàn cảnh lịch sử cấp bách của nước ta thời bấy giờ, khi mà nền độc lập vừa giành được sau cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 đang bị đe dọa bởi các thế lực đế quốc thực dân: quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ tiến vào từ phía Bắc và quân đội Anh, sau lưng là quân viễn chinh của Pháp tiến vào từ miền Nam với âm mưu xâm chiếm lại nước ta một lần nữa. Như vậy, trước hành động của đối phương, tác giả đã khéo léo trích dẫn hai bản tuyên ngôn để tạo nên chiến thuật "Gậy ông đập lưng ông" ngay trên trang giấy nhằm nhắc nhở những hành động của bọn đế quốc, thực dân đang đi ngược lại và làm trái với những điều mà đất nước họ từng dõng dạc tuyên bố. Đồng thời, điều này còn thể hiện rõ tác giả đang ngầm đặt cuộc cách mạng của nước ta ngang hàng với hai cuộc cách mạng của Pháp và Mĩ.


    Điều đặc biệt của bản tuyên ngôn là từ việc trích dẫn về quyền con người để làm dẫn chứng, tác giả đã nâng tầm và mở rộng thành quyền dân tộc, tạo nên một lí lẽ hết sức thuyết phục và sắc bén. Suy luận này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước thuộc địa và thường xuyên phải đấu tranh chống lại gót giày xâm lược như nước ta, bởi con người chỉ được hưởng tự do, bình đẳng khi dân tộc giành được độc lập. Mối quan hệ giữa quốc gia dân tộc và con người đã được tác giả khẳng định thông qua một tư tưởng độc đáo và mang tính nhân văn vô cùng sâu sắc.


    Với nội dung là nêu nguyên lí chung, phần mở đầu của tác phẩm đã thể hiện rõ tài năng của tác giả trên địa hạt văn chương. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn đã tạo nên một dẫn chứng xác thực góp phần củng cố lí lẽ, luận điểm đanh thép của tác phẩm.Tất cả đã tạo nên một lập luận chặt chẽ và giàu sức thuyết phục, vừa khôn khéo vừa kiên quyết để tạo nên nền tảng pháp lí vững vàng để tác giả tố cáo tội ác của bọn thực dân.


    Như vậy, thông qua nguyên lí chung được thể hiện ở phần mở đầu, chúng ta có thể thấy được tài năng của tác giả Hồ Chí Minh khi tạo lập một văn kiện chính trị - lịch sử, một áng văn chính luận mẫu mực. Thông qua việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, phần mở đầu đã trở thành một nền tảng vững chắc cho những luận điểm mà tác giả triển khai ở những phần còn lại, đồng thời khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bản "Tuyên ngôn độc lập" bất hủ.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  4. Bản “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2 tháng 9 năm 1945 là một văn kiện có giá trị và ý nghĩa lịch sử to lớn: Tuyên bố thủ tiêu chế độ thực dân và phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc.


    Bản “Tuyên ngôn Độc lập” do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong đoạn văn mở đầu có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận của Người.


    Về nội dung tư tưởng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra và khẳng định: quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu: cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người “không ai có thể xâm phạm được”. Nhân quyền là cao cả thiêng liêng, bởi lẽ “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.


    Nội dung tư tưởng của đoạn văn mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” càng trở nên sâu sắc vì từ những quyền thiêng liêng của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên quyền của các dân tộc: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tư tưởng vĩ đại ấy không chỉ thể hiện khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta mà còn phản ánh khát vọng của các dân tộc nhược tiểu, phản ánh xu thế giải phóng dân tộc sau Thế chiến thứ hai. Đó là “cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh” (Giáo sư Singô Sibata - Nhật Bản).


    Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. “Tuyên ngôn Độc lập” có kết cấu ba phần rất chặt chẽ: định đề - phản đề - tuyên bố.


    Ở phần định đề, Hồ Chí Minh trích dẫn hai đoạn văn tiêu biểu nhất nói về: nhân quyền và dân quyền trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước Mỹ và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp” năm 1791. Mỹ và Pháp là hai quốc gia vĩ đại; nhân quyền và dân quyền là tư tưởng vĩ đại, là khát vọng của con người, là chân lý có ý nghĩa phổ quát, không ai có thể chối cãi được. Cách trích dẫn của Bác rất chuẩn mực theo thứ tự thời gian (1776 - 1791), trên hai châu lục khác nhau (châu Mĩ, châu Âu), hai quốc gia khác nhau (nước Mỹ, nước Pháp), nhưng lại tương đồng về tư tưởng nhân quyền và dân quyền. Từ quyền thiêng liêng của con người, Hồ Chí Minh “suy rộng ra” nói đến quyền tự quyết của các dân tộc. Từ trích dẫn đi đến khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Cách lập luận ấy rất chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục.


    Nghệ thuật trích dẫn của Hồ Chí Minh đã chỉ ra khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta, ca ngợi tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Người vừa tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các dân tộc trên thế giới, đồng thời ngầm cảnh báo những âm mưu đen tối của thực dân Pháp và bọn đế quốc rằng, chúng xâm lược nước ta là chính chúng đã chà đạp lên nhân quyền và quyền tự quyết của các dân tộc.


    Cách mở bài rất đặc sắc, vì từ định đê mà chuyển sang phần phản đề, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt xảo quyệt thâm độc của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta” trong suốt tám mươi năm trời, gây ra bao tội ác ghê tởm về chính trị, về kinh tế... Cách lập luận như thế rất chặt chẽ và hùng hồn.


    Qua phần mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, ta còn thấy văn phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, súc tích, thấm thía, rung động lòng người, “Tuyên ngôn Độc lập” là “lời Non Nước” cao cả và thiêng liêng.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  5. Trong suốt sự nghiệp văn chương của mình, Hồ Chí Minh đã để lại cho thế hệ đời sau những kiệt tác văn học. Phần lớn thơ ca của Người là để ca ngợi thiên nhiên hoặc kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên kháng chiến. Nổi bật hơn cả là áng văn nghị luận “Tuyên ngôn Độc lập”, một văn kiện mang tính lịch sử, chính thức khai sinh ra nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Được đánh giá là sự chuẩn mực của thể loại nghị luận, ngay từ đầu tác phẩm, Hồ Chí Minh đã viết rất cao tay, vừa khéo léo, vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.


    Nghị luận là một thể loại văn chương mang tính thuyết phục rất cao, thường có tích triết lý hàn lâm, dùng để diễn tả và truyền đạt một tư tưởng nào đó đối với các sự việc, hiện tượng trong đời sống thông qua các hệ thống luận điểm, luận cứ và lập luận. Tác phẩm nghị luận mang ý kiến, tư tưởng của người viết, thường sẽ là tư tưởng đúng đắn, tích cực, có tầm ảnh hưởng tới định hướng xã hội. Đặt trong bối cảnh lịch sử, bản “Tuyên ngôn Độc lập” đã đáp ứng tất cả những yêu cầu cũng như tuân thủ chuẩn mực những quy tắc của một văn bản nghị luận. Việt Nam chính thức thoát khỏi ách nô lệ, trở thành một nước độc lập sau Cách mạng Tháng tám năm 1945. Với sự kiện tối quan trọng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo “Tuyên ngôn Độc lập” để đọc trước toàn thể nhân dân. Phần mở đầu của tác phẩm đã tạo nên một hệ thống cơ bản, làm cơ sở lý luận vững chãi cho toàn bộ ba phần phía sau, đồng thời trình bày lý lẽ sắc bén, bao hàm tầng ý nghĩa sâu xa, châm biếm:


    “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

    Lời bất hủ ấy ở trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

    Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.

    Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.”


    Khẳng định quyền tự do của dân tộc Việt Nam, Hồ Chủ tịch không đưa ra những lời lẽ kêu gọi sáo rỗng mà lựa chọn cách trích dẫn trực tiếp bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1778 của Mỹ. Sau đó, Người đưa ra dẫn chứng về bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Cách mạng Pháp năm 1791 để khẳng định “quyền bình đẳng”, “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Cái hay trong thủ pháp nghệ thuật ở đây là “gậy ông đập lưng ông”, lấy chính cái mà Đế quốc Mỹ, Thực dân Pháp khẳng định và tuyên bố về quyền con người, quyền tự do để phản bác lại những hành động dơ bẩn của chúng. Bản thân chúng là người đề cao sự tự do, khẳng định con người “luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” lại đi xâm lược nước khác. Dùng chính những lý lẽ, lập luận của kẻ thù, những lý luận đã đưa Pháp và Mỹ lên tầm “thượng đẳng”, cao quý lại đi ngược lại với lời của chính tổ tiên họ để lại. Hồ Chí Minh viết rất cao tay, mang hàm nghĩa sâu sắc, khéo léo và có phần mỉa mai, châm biếm. Những lời này giống như một cái tát vào chính quyền tư bản thực dân lăm le xâm chiếm Việt Nam suốt vài thập kỷ. Rõ ràng là trích dẫn một cách trang nghiêm, tôn trọng nhưng thực chất là “chặn họng” những tên mang tư tưởng bá chủ, thống trị thế giới, đi ngược lại với lẽ tự nhiên, với những lời đã được cha ông họ truyền lại.


    Một ẩn ý sâu sắc không phải ai cũng nhận ra khi Bác nhắc đến Mỹ và Pháp ngay từ đầu bản Tuyên ngôn độc lập, trước khi liên hệ với Việt Nam là sự ngang hàng. Đặt Việt Nam sánh vai với hai cường quốc kinh tế là Pháp, Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định tầm quan trọng của quyền tự do tại Việt Nam cũng quan trọng như tại hai nước đế quốc này. Nền độc lập của bất kỳ quốc gia nào, bất kì lãnh thổ nào cũng đáng tôn trọng và đáng giữ gìn. Ý nghĩa sâu sắc không phải ai cũng ngộ ra được đã thể hiện tài năng văn học, đồng thời thể hiện trí tuệ xuất chúng của Hồ Chủ tịch.


    “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Không chỉ gói gọn trong khuôn khổ Việt Nam, Hồ Chí Minh còn mở rộng vấn đề nhân quyền, tự do ra tầm thế giới. Một mặt, tác giả muốn khẳng định sự tự do của Việt Nam đáng để được quốc tế quan tâm và ghi nhận, một mặt là lời kêu gọi vừa kín đáo, vừa quật khởi với các nước đang chìm đắm dưới ách nô lệ. Sau Cách mạng Tháng tám của Việt Nam, các dân tộc thuộc địa như Lào và Campuchia đã được tiếp thêm sức mạnh tinh thần mạnh mẽ cũng như niềm tin vào chế độ Xã hội Chủ nghĩa, đồng thời, sự kiện ngày 2 tháng 9 cũng đặt một mốc son vàng chói lọi vào công cuộc chiến thắng chủ nghĩa Phát xít trên toàn thế giới.


    Đoạn mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập” được viết rất khéo và đắt, vừa kiên quyết khẳng định quyền tự do của Việt Nam, vừa khéo léo lên án, chỉ trích chủ nghĩa thực dân bất công, vô lý. Không chỉ mang tầm lịch sử đối với lãnh thổ Việt Nam, đây cũng là một tác phẩm có ý nghĩa quốc tế, là động lực đứng lên kháng chiến cho nhiều quốc gia khác. Về mặt nghệ thuật, “Tuyên ngôn Độc lập” là hình mẫu chuẩn mực về văn nghị luận với những lớp lang, lý lẽ rõ ràng, đặc biệt là đoạn mở đầu đầy tính thuyết phục, mang tầm thời đại.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  6. Trong bài thơ Theo chân Bác, nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại thời khắc lịch sử của dân tộc một cách thật xúc động:

    “Hôm nay sáng mồng hai tháng chín

    Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình

    Muôn triệu tim chờ... chim cũng nín

    Bỗng vang lên tiếng hát ân tình”


    Vào sáng mùa thu năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Văn chính luận của Người nói chung, Tuyên ngôn độc lập của Người nói riêng đã thể hiện được một tư duy sắc sảo, một ngòi bút giàu tính luận chiến. Điều đó được thể hiện chi tiết qua đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn.


    Trước hết, đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, ta thấy cách đặt vấn đề của Hồ Chí Minh rất bất ngờ, độc đáo. Bởi Người không ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc mà trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn của Mỹ, năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh rất sắc sảo và trí tuệ trong cuộc đối thoại lịch sử này. Bởi hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ ở thế kỉ XVIII là di sản tư tưởng của nhân loại, đánh dấu buổi bình của cuộc Cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, đã có công lao nêu thành nguyên tắc, pháp lý quyền cơ bản của con người vì vậy có sức thuyết phục người đọc, người nghe.


    Lấy hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của lịch sử nhân loại làm mở đầu cho bản tuyên ngôn của mình, Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện vốn hiểu biết văn hóa và trân trọng thành quả văn hóa của nhân loại mà còn thể hiện sự khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo ở chỗ, Người tỏ ra trân trọng bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ nhưng cương quyết cũng bởi đây cũng chính là hình thức gậy ông đập lưng ông. Đúng là bác bỏ luận điệu của kẻ thù thì không có gì lý thú và thích đáng hơn là dùng chính lý lẽ của chúng để đẩy chúng vào tự vạch mặt. Hồ Chí Minh nhắc họ đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ chính nghĩa mà tổ tiên họ đã phải trải qua bao nhiêu năm đấu tranh mới có thể dành được. Với cách trích dẫn này, Bác đã đặt ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau, đặt ba nền độc lập đăng đối gợi được niềm tự hào dân tộc như Nguyễn Trãi đã từng viết Bình Ngô đại cáo:

    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;

    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;

    (Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi)


    Một tài tình nữa của Hồ Chí Minh nằm trong ba chữa “suy rộng ra” điều đó cho thấy Bác tỏ ra khéo vận dụng những tinh hoa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây hơn một thế kỷ bằng cách nâng lên một tầm vóc lớn lao, khái quát hơn. Từ quyền con người nói chung trong bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, Người đã nâng lên thành quyền dân tộc. “Suy rộng ra…tất cả các dân tộc trên thế giới… quyền sung sướng và quyền tự do” nghĩa là không chỉ có cá nhân bình đẳng về quyền lợi mà các dân tộc trên thế giới cũng có quyền bình đẳng, quyền tự chủ, tự quyết. Chính ý kiến “Suy rộng ra” của Bác có ý nghĩa lớn lao đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới mà một nhà văn hóa nước ngoài trong cuốn “Hồ Chí Minh là Người đã phát triển quyền lợi con người thành quyền lợi dân tộc. Qua phân tích trên có thể thấy đoạn mở đầu hết sức ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng. Hai câu trích dẫn bổ sung cho nhau - một lời lập luận sáng tạo đầy chất trí tuệ. Một câu khẳng định đanh thép: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” để làm nổi bật lên luân lí chính trị sâu sắc: quyền sống, quyền tự do dân tộc.

    Như vậy, đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn đã thể hiện được tài năng lập luận tài tình của Hồ Chí Minh. Người đã đưa ra một cơ sở pháp lý mà không bất kì quốc gia nào có thể chối cãi được.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  7. “Tuyên ngôn Độc lập” là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son chói lọi đánh dấu sự kiện nước ta bước vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập, tự do. Đoạn mở đầu tác phẩm đã thể hiện rõ giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh.


    “Hỡi đồng bào cả nước” là câu nói mở đầu bản tuyên ngôn. Nó có sức mạnh hiệu triệu, lay động hàng triệu trái tim đồng bào, là đối tượng hướng đến của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối tượng tiếp nhận của bản tuyên ngôn này bao gồm đồng bào cả nước, nhân loại tiến bộ trên thế giới, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đang lăm le quay lại xâm lược nước ta.


    Người đã trích dẫn hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ” năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp (1791): “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” làm dẫn chứng xác thực.


    Việc làm đó đã tạo nên tiền đề, cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn. Người đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đã đặt cuộc cách mạng Việt Nam ngang hàng với cuộc cách mạng của Pháp và Mĩ. Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp “gậy ông đập lưng ông”, lấy hành động của con cháu Pháp, Mĩ chà đạp lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đi xâm lược Việt Nam.


    Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. Hồ Chí Minh đã dùng những lí lẽ sắc sảo, đanh thép, hùng hồn. Văn phong của Người thể hiện trí tuệ uyên bác, hiện đại. Bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh đi trước thời đại về vấn đề nhân quyền và dân quyền. Từ những lí lẽ đầy đủ, cụ thể, Người đã đưa ra một lí lẽ đanh thép: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy