Top 7 Bài văn phân tích hình tượng người bà trong "Đò Lèn" của Nguyễn Duy (lớp 12) hay nhất

Bình An 105 0 Báo lỗi

Thơ Nguyễn Duy có sự kết hợp hài hòa giữa cái duyên dáng, trữ tình với chất thế sự đậm đặc, nhiều bài là tiếng nói khẳng khái, bộc trực, đầy ngang tàng mà trầm ... xem thêm...

  1. Hình ảnh người bà là một đề tài chưa bao giờ cũ trong nền văn học Việt Nam. Nếu Bằng Việt có hình ảnh người bà hiện lên bếp lửa ấp ưu nồng đượm, thì ở Nguyễn Duy ta lại nhìn thấy hình ảnh của người bà sớm hôm tảo tần với những buôn bán ngược xuôi vất vả. Đấy chính là hình ảnh người bà trong tác phẩm “Đò Lèn”.


    Mở đầu bài thơ tác giả còn vẽ lên trước mắt người đọc hình dáng một cậu bé tinh nghịch với những thú chơi của trẻ nhỏ:

    “Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

    níu váy bà đi chợ Bình Lâm

    bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

    và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”


    Cậu bé ấy chính là nhà thơ Nguyễn Duy, hình ảnh nhà thơ hồi bé hiện lên thật nghộ nghĩnh khi bắt cá, khi níu áy bà đi chợ. Không những thế trong tâm tưởng của cậu bé ấy còn không biết đên sự uy nghiêm của nơi Phật tại vậy nên với dẫn đến những trò chơi mà không sợ bị đức Phật quở trách. Đó chính là hành động bắt chim sẻ trên vành tai Phật Tổ và ăn trộm nhãn chùa Trần. chính sự ngây thơ đã cho cậu bé Nguyễn Duy của chúng ta không biết sợ và qua đó ta thấy Nguyễn Duy có một tuổi thơ giống như những cậu bé thôn quê, nghịch ngợm thật đấy nhưng đối với trẻ con quê thì hành động vặt trộm nhãn chùa Trần không phải xấu xa như cái tên ăn trộm mà cơ bản đó chỉ là một trò nghịch ngợm của trẻ con làng quê.

    Hình ảnh của cậu bé Duy tinh nghịch khi đi lễ phật với bà. Cậu hiếu động nghịch ngợm và cậu vẫn rất còn bé để hiểu rõ sự tôn nghiêm nơi cửa Phật:


    “Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

    chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

    mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

    điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”


    Đó là những kí ức đẹp của nhà thơ với người bà của mình, cái tuổi thơ ấy êm đềm hơn khi có bà bên cạnh. Bà đi đâu cũng mang theo nhà thơ theo, chính vì thế có thể nói rằng tuổi thơ của nhà thơ gắn chặt với hình ảnh người bà. Nếu nhà thơ Bằng Việt có tuổi thơ gắn liền với bà và những hình ảnh thân thương của bếp lửa thì Nguyễn Duy lại có những kỉ niệm thật đẹp bên bà và những lần cùng bà đi lễ phật đi chợ chơi. Đó là những khoảnh khắc vô cùng đáng nhớ tuổi cậu còn nhỏ quá, nhỏ đến mức cậu vẫn đi chân đất đi xem lễ Đền Sòng. Có thể thấy tuổi thơ không gắn chặt với những hình ảnh cánh đồng thơm mát, những cánh diều mơ ước được thả trên nền trời xanh kia mà đó chính là những khoảnh khắc nghịch ngợm của cậu bé ấy ở những lễ đền và chùa. Cậu nghịch ngợm trên không gian uy nghi ấy và nghịch trong chính những hương thơm của hương trầm. Và một điệu hát văn với hình dáng lảo đảo của cô đồng đã mang ghi dấu trong tâm trí non nớt của cậu bé ấy.


    Và chính sự ngây thơ ấy đã làm cho cậu bé chưa hiểu được sự cơ cực vất vả của bà. Ngay đến cả sự uy nghi của cửa Phật cậu còn không biết huống chi những nỗi vất vả của bà. Như thế mới nói trẻ em tâm hồn chúng như những tờ giấy trắng vậy, sự trong sáng ngây thơ của chúng lại trở thành sự vô tâm với những người thân yêu của mình. Nhưng điều đó chỉ xét trong trường hợp khi sau này chính những đứa trẻ ấy ngẫm lại chứ không phải là trách chúng vì vốn dĩ như thế mới được gọi là một đứa trẻ:


    “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

    bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

    bà đi gánh chè xanh Ba Trại

    Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”


    Tác giả nói “tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế” như một lời trần thuật nói về những gì mà bà đã phải trải qua nhưng tâm hồn của nhà thơ lúc đó không thể hiểu được vất vả cơ cực là gì. Tâm hồn ấy chỉ dành cho những thú vui những trò chơi mà thôi. Bà không những phải mò cua bắt tép mà bà còn phải gánh chè xanh đi bán nữa. Có thể nói ở cái tuổi của bà mà lại phải vất vả cơ cực như thế. Đến bây giờ nhà thơ nghĩ lại bỗng như nhận ra những gì thơ ơ của mình. Những địa danh kia được nêu tên thật cụ thể như chứng nhân công nhận cho những hi sinh vất vả của bà vì đứa cháu yêu. Bà không chỉ làm ngày mà còn làm đêm nữa, những đêm lạnh bà cũng đi Quán Cháo, Đồng Giao. Có thể nói hai chữ “thập thững” đã lột tả tất cả những sự khó khăn và nguy hiểm đối với tuổi tác cũng như sự già yếu của bà. Thế nhưng ngày nào cũng như ngày nào bà làm công việc ấy để vì đứa cháu yêu.


    Tuổi thơ của Nguyễn Duy còn phải trải qua những năm tháng kháng chiến chống giặc ngoại xâm, chính cái tuổi thơ ấy đã thấm thía những gì là nghèo đói trong Nguyễn Duy. Hình ảnh củ rong giếng luộc sượng đã cho thấy sự nghèo đói về khắp đất nước. Thế nhưng người bà tần tảo kia không chỉ là một người bà mà còn giống như một người cha, người mẹ vẫn ngày đêm cực khổ kiếm từng đồng một để nuôi cậu bé Nguyễn Duy. Chính vì thế mà nhà thơ không phân biệt được người bà của mình với nhưng nhân vật siêu nhiên kia. Bà giống như tiên như phật vậy:


    “Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực

    giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần

    cái năm đói củ dong riềng luộc sượng

    cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”


    Thế rồi không những cảnh đói mà tuổi thơ bên người bà kính yêu ấy của nhà thơ còn phải trải qua những năm tháng vô cùng ác liệt với bom đạn của chiến tranh:

    “Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất

    đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

    thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

    bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”


    Đó là những ngày tháng khó khăn trong cuộc đời tác giả và người bà của mình. Hình ảnh nhà bà bay cũng như những đến Sòng, chùa chiền bay, thánh với phật rủ nhau đi đâu hết đã lột tả hết sự gian ác khốc liệt của cuộc chiến tranh ấy. Bà lại phải đổi nghề khác đó chính là bán trứng ở ga Lèn. Những hình ảnh kia như nói lên được sự khủng khiếp của chiến tranh nó không chỉ phá mất nhà của hai bà cháu mà ngay cả chỗ linh thiêng như chùa chiền cũng bị bom đạn làm cho biến mất tàn trụi.


    Và giờ đây khi người cháu ấy đã lớn khôn hiểu ra những nỗi vất vả cơ cực của bà thì đã quá muộn bà đã ra đi và đến bên thế giới bên kia. Nhưng sự ra đi của bà không làm cho bà mất đi trên cõi đời này vì bà luôn còn sống mai trong chính tâm tưởng tình cảm của người cháu thân yêu:


    “Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại

    dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi

    khi tôi biết thương bà thì đã muộn

    bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”


    Dù cho tác giả đã đi lính nhưng thời gian thì cứ trôi dòng sông thì vẫn ngày đêm bên lở bên bồi, và bà ngoại thì cũng cứ già thế nên khi tác giả nhận ra những tình cảm và sự cơ cực của bà thì đã quá muộn. bây giờ bà chỉ còn một nấm cỏ khô mà thôi.


    Kết lại bài thơ là một nỗi buồn, nỗi nhớ thương hoài cổ. Hình ảnh người bà tảo tần với những buôn bán ngược xuôi, với những lo toan trong cuộc sống, với tình yêu thương vô bờ dành cho cháu sẽ vẫn mãi luôn in sâu trong tâm trí người đọc. Bà về với đất, “chỉ còn là một nấm cỏ thôi” nhưng hình bóng bà vẫn mãi còn đó, mãi dõi theo cháu trong suốt cả cuộc đời.

    Ảnh minh họa (Nguồn internet)
    Ảnh minh họa (Nguồn internet)

  2. Tình cảm gia đình luôn là một thứ tình cảm thiêng liêng nhất, vì chỉ có gia đình mới là người bên ta dù cho khó khăn hay sung sướng mà thôi. Có biết bao nhiêu thứ tình cảm đi qua đời một con người như tình bạn, tình yêu, tình bằng hữu... nhưng duy nhất chỉ có tình cảm gia đình là bền vững nhất. Trong tình cảm lớn ấy chúng ta không chỉ biết đến công cha nghĩa mẹ mà còn biết đến sự yêu thương chăm sóc của bà. Người bà đã biết bao nhiêu lần trở thành đề tài văn học tiêu biểu trong những bài thơ bài văn nói về bà ấy có thẻ nhắc đến hình tượng người bà trong bài thơ Đò Lèn của nhà thơ Nguyễn Duy. Qua tác phẩm này ta thấy những vẻ đẹp của người bà hiện lên một cách rõ ràng và nó tiêu biểu cho hình tượng những người bà trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.


    Trước hết người bà còn hiện lên với vẻ đẹp của một người yêu thương cháu hết mực. bà tham gia những lễ đền lễ chúa chính vì thế mà tác giả Nguyễn Du ngay từ bé đã quen với những nơi như chùa Trần, Phật Tổ:


    "Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

    níu váy bà đi chợ Bình Lâm

    bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

    và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần


    Hay đó chính là tín ngưỡng tôn đạo Phật mà nhân dân ta. Qua những vần thơ kể về tuổi thơ của Nguyễn Duy ta thấy được hình ảnh người bà ấy có cái tâm thật tĩnh và hướng thiện. Vì chỉ có hướng thiện thì bà mới hay đi chùa như thế. Và cũng chính vì hay đi chùa cho nên Nguyễn Duy mới có những trò chơi gắn liền với hình ảnh chùa chiền đến vậy. Lớn lên bên bà nên Nguyễn Duy cũng sớm quen cái mùi hương trầm. đó là nhưng hương thơm tạo nên không khí thiêng liêng kính cẩn của chùa phật. Không những thế người bà ấy còn là một người rất thương yêu cháu mình, bà đi đâu thì nhà thơ cũng theo tới đó:


    "Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

    chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

    mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

    điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng"


    Nhà thơ không chỉ quen với hương trầm huệ trắng mà còn quen cả những bóng cô đồng lảo đảo hát chầu văn. Và hình ảnh rất đồi giản dị mà gợi lên tất cả những gì của đơn sơ nghèo mà đời sống tâm hồn thì phong phú đó là hình ảnh tác giả đi chân đất đi chợ đền Sòng với bà.


    Hình tượng người bà còn hiện lên thật hay qua những công việc của bà. đó chính là sự khổ cực và đức hi sinh cao cả của bà trong những năm tháng kháng chiến chống mỹ đầy ác liệt. Bà chọn cho mình công việc cả ngày cả đêm. Đó không chỉ là một công việc mà đó là rất nhiều công việc. Qua những công việc đó ta thấy được sự cơ cực của người bà. Sáng ra bà mò cua xúc tép, rồi đi gánh chè xanh Ba Trại. Tối đến bà lại đi Quán Cháo, Đồng Giao. Đó chính là những nét đẹp hi sinh vất vả đẹp đẽ của bà:


    "Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

    bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

    bà đi gánh chè xanh Ba Trại

    Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn


    Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực

    giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần

    cái năm đói củ dong riềng luộc sượng

    cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm"


    Và chính vì thế mà trong mắt nhà thơ bà hiện lên không khác gì với những thánh thần kia cả. Bà đẹp cái vẻ đẹp hiền hậu, nhân hậu, lương thiện và giàu đức hi sinh giống như những ông Phật Tổ kia ban phước cho đời thì bà chính là ngươi ban phước mang niềm hạnh phúc đến cho cuộc đời của cháu. Hình tượng người bà hiện lên với sự kiên cường của những bà mẹ Việt Nam anh hùng:

    "Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất

    đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

    thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

    bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn"

    Dù cho biết bao nhiêu bom đạn rơi xuống, nhà của bà mất, đời sống tâm linh của bà cũng bay tuốt nhưng mà vẫn không lùi bước. Bà vẫn kiên cường chống lại thứ vu khí hủy diệt kia bằng cách sống theo một nghề khác. Cuộc sống nghèo khổ và đau thương không làm cho bà mệt mỏi và ngã quỵ mà còn khiến cho bà kiên cường hơn. Bà đi bán trứng để tiếp tục cuộc sống của mình. và đến khi mất đi rồi bà vẫn còn ở tâm trí người cháu Nguyễn Duy cậu bé hồn nhiên hồi nào.

    Có thể nói hình tượng người bà trong bài thơ này đại diện cho những vẻ đẹp của người mẹ anh hùng Việt Nam. Những người mẹ đó tuy đã già nhưng vẫn rất kiên cường chống lại bom đạn và sự tàn ác của kẻ thù. Bà không ngại khó khăn để mang đến một cuộc sống cho cháu, để những người cháu ấy lớn lên và cầm vững tay súng để bảo vệ chủ quyền cho đất nước cũng như để giữ yên nấm cỏ khô kia khỏi bom đạn chiến tranh.

    Ảnh minh họa (Nguồn internet)
    Ảnh minh họa (Nguồn internet)
  3. Tuổi thơ của mỗi chúng ta không chỉ có sự hiện diện của những người bạn bè cùng trang lứa mà tuổi thơ ấy còn gắn liền với những con người thân thuộc, trong đó có người bà. Chúng ta thường gắn bó với những câu chuyện cổ tích bà kể, gắn bó với những món quà quê tuy giản dị nhưng vô cùng ý nghĩa mà người bà dành tặng cho ta sau mỗi phiên chợ. Văn học Việt Nam đã có không ít những bài thơ viết về người bà đáng kính nhưng bài thơ để lại cho bạn đọc nhiều cảm xúc nhất có lẽ là bài thơ "Đò lèn" của Nguyễn Duy.


    Hiện lên trong tác phẩm là hình tượng người bà yêu thương cháu vô điều kiện:

    "Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

    níu váy bà đi chợ Bình Lâm

    bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

    và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

    Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

    chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

    mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

    điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng"


    Do chỉ có hai bà cháu nên người bà đi đâu cũng cho người cháu theo cùng. Cậu bé tinh nghịch ấy đã "níu váy bà đi chợ Bình Lâm" và cũng nắm tay bà đi đến những nơi linh thiêng như chốn cửa Phật, chùa chiền, đình đền để xem hát văn, xem cô đồng và xem lễ đền Sòng. Chính tại nơi đây, người cháu đã ngửi thấy mùi "thơm lắm" của hoa huệ trắng hòa quyện với khói trầm. Những trò "bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật" hay trò ăn trộm nhãn ở chùa Trần cũng bắt nguồn từ đó. Phải là một con người có cái tâm hướng thiện thì bà mới hay tới những nơi chùa chiền như vậy. Phải chăng khi đưa đứa cháu ngoại đi cùng, bà cũng mong muốn cháu sẽ có tâm hồn luôn hướng tới điều thiện, góp ích cho đời? Sống trong thời chiến tranh nên sự vất vả, cực nhọc của người bà như tăng lên gấp bội:


    "Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

    bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

    bà đi gánh chè xanh Ba Trại

    Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn"


    Bà không quản ngại những công việc nặng nhọc mà ngược lại, bà còn làm nhiều công việc khác nhau để nuôi nấng đứa cháu lớn khôn thành người. Hết mò cua xúc tép, bà lại đi gánh chè xanh rồi đêm đêm lạnh giá những bước chân bà thập thững qua Quán Cháo, Đồng Giao. Bà không ngại khó, ngại khổ mà bà chỉ muốn chăm lo đầy đủ cho cuộc sống của người cháu. Bởi với bà, đó không chỉ là trách nhiệm mà đó còn là tình yêu thương của cá nhân bà đối với đứa cháu thơ bé. Chiến tranh là mất mát, là đói kém. Những năm đói, hai bà cháu phải ăn "củ dong riềng luộc sượng" để sống sót. Chính vì bà lam lũ, giàu đức hi sinh như vậy nên tác giả đã:


    "Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực

    giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần"


    Bà cao thượng như các bậc thánh thần, tiên phật. Bà hiền từ, nhân hậu như các bà tiên bước ra từ truyện cổ tích. Bà đã gánh cả phần trách nhiệm của bố mẹ người cháu nên bà luôn cố gắng để có thể chăm lo cho cuộc sống của cháu một cách trọn vẹn nhất dù bản tân có phải trải qua bao gian khổ. Chiến tranh không làm con người ta lùi bước, nản chí mà chiến tranh còn làm con người ta trở nên kiên cường hơn và bà cũng như vậy. Đạn bom kẻ thù không làm bà sợ hãi mà nó còn khiến bà trở nên kiên cường, dũng cảm hơn:


    "Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất

    đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

    thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

    bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn"


    Khi những trận bom Mĩ dội xuống cũng là lúc những chốn linh thiêng như chùa chiền, đình đền "bay tuốt" không còn lại thứ gì, những lễ hội hay điệu hát cô đồng cũng không còn nữa. Lúc này bà tần tảo đi "bán trứng ở ga Lèn". Khó khăn không đánh gục được bà, bom Mĩ không làm bà chùn bước. Bà quả là một người phụ nữ anh hùng, là đại diện tiêu biểu cho biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh. Hình tượng người bà càng trở nên thiêng liêng, bất tử khi người cháu trở về quê ngoại và ân hận vô cùng vì ngày thơ bé đã không thấu hiểu được những nỗi cực nhọc của bà:


    "Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại

    dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi

    khi tôi biết thương bà thì đã muộn

    bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi"


    Dòng sông năm xưa vẫn không thay đổi nhưng giờ đây "bà chỉ còn là một nấm cỏ". Còn gì đau đớn hơn khi người thương yêu mình nhất không còn ở bên cạnh mình và họ không còn tồn tại nữa? Đến lúc này, người cháu mới nhận ra người bà có ý nghĩa như thế nào đối với mình. Anh xót thương bà bao nhiêu thì cũng oán trách bản thân mình bấy nhiêu. Anh cảm thấy xót xa khi tất cả nỗi vất vả, nhọc nhằn bà đều một mình gánh lấy. Bà là người anh hùng trong cuộc đời của anh, là người đã có công lao to lớn trong việc nuôi dạy anh thành người và cũng là người mà có lẽ cả đời này anh không dám quên công ơn nuôi dưỡng.


    Nguyễn Duy đã viết về người bà ngoại của mình với tất cả lòng kính trọng và yêu thương sâu sắc. Tuy bà đã ra đi nhưng hình tượng người bà kiên cường và hết lòng yêu thương cháu vẫn còn vẹn nguyên.

    Ảnh minh họa (Nguồn internet)
    Ảnh minh họa (Nguồn internet)
  4. Nguyễn Duy đã rất thành công trong việc miêu tả thành công nhân vật người bà trong tác phẩm, đó là hình tượng thành công trong sự nghiệp văn học của ông. Hình ảnh đó đã trở thành một hình mẫu văn học đẹp trong văn học.


    Có thể thấy trong nền văn học Việt Nam, hình tượng người bà khá là phổ biến và nó là một hình mẫu đẹp trong nền văn học, tất cả những hình ảnh đó đang dần trở thành một đề tài mà mỗi nhà thơ đều khai thác và đi sâu vào nghiên cứu rộng, chính vì vậy, muốn phát triển thêm cho hình tượng của mình, mỗi tác giả phải có cái nhìn riêng, những trải nghiệm, những khám phá đặc sắc về nhân vật đó. Trong bài thơ Đò lèn của Nguyễn Duy ông đã tận dụng tối đa chất liệu từ chính cuộc đời với người bà của mình.


    Hình ảnh người bà tần tảo luôn làm mọi điều để cho cháu được sống cuộc sống đầy đủ nhất, hình ảnh người bà trong tác phẩm này thể hiện một mẫu hình lý tưởng, đó là một mẫu hình đẹp trong con mắt của tác giả, một người bà luôn hy sinh, chịu sự vất vả khó khăn, bươn trải kiếm sống:


    Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

    Bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

    Bà đi gánh chè xanh Ba Trại

    Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn


    Bà cực khổ, kiếm sống hàng ngày, đi bán hàng để lấy tiền kiếm sống, đi mò cua xúc tép, đi bán chè ở xanh Ba Trại, rồi đi bán cháo trong đêm lạnh giá, tất cả những hình ảnh đó đã thể hiện sự hy sinh, luôn hết mình vì cuộc sống của hai bà cháu, tần tảo sớm hôm để kiếm sống, hết mình vì cháu. Những hình ảnh trên thật xúc động, nó gợi nhớ cho tác giả, một hình ảnh người bà, với sự tần tảo sớm hôm, luôn hết mình vì cuộc sống, sự vất vả đó được thể hiện ngay trong câu cảm thán: “tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”. Dường như tác giả đang choáng ngợp trước sự vất vả, sự hy sinh của người bà. Tuổi thơ tác giả là đứa trẻ vô tư, không lo nghĩ gì đến sự vất vả, sự hy sinh của người bà, chính vì thế, khi lớn lên, tác giả đang dần choáng ngợp trước sự vất vả đó, đã biết thương bà nhiều hơn, luôn lo lắng, quan tâm đến bà, hình ảnh đó đã thể hiện sự hy sinh, sự thầm hiểu sâu sắc nỗi khổ đau mà bà đang gặp phải.


    Bà không phải làm một nghề mà làm rất nhiều nghề để kiếm sống, lo cho cuộc sống của cháu, chính vì thế nỗi khổ đau dường như lại tăng lên gấp nhiều lần hơn. Giờ đây người cháu đã thấu hiểu nỗi khổ của người bà, biết thương bà nhiều hơn, biết quan tâm và yêu thương, trân trọng trước hình ảnh của người bà, những tình cảm đó thật chân thành, da diết và yêu thương biết bao.


    Hình ảnh của người bà, đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam, những người luôn biết hy sinh, tần tảo cho gia đình. Luôn hết mình vì con cháu, chính vì thế đây là hình mẫu cho những người phụ nữ đẹp. Trong tác phẩm tác giả đã kể lại những quãng thời gian đã sống bên bà, cùng bà đi chợ, lên chùa, ăn trộm nhãn… Rất nhiều hình ảnh được tác giả hình dung lại, qua đó nó nổi lên hình tượng người phụ nữ Việt Nam. Và đặc biệt trong tác phẩm này đó là hình ảnh người bà tần tảo, luôn hết mình vì cháu.


    Sự hy sinh đó chỉ muốn cho cháu có cuộc sống tốt hơn. Tác giả đã rất thành công trong việc xây dựng hình ảnh người bà, một người luôn hết mình vì cháu. Đây có lẽ là một hình tượng được xây dựng thành công trong tác phẩm của Nguyễn Duy, nó tăng lên khả năng hấp dẫn bởi những hình ảnh gợi hình, đầy xúc động.


    Trong tác phẩm, ngoài miêu tả hình ảnh người bà qua những chi tiết tần tảo, tác giả còn miêu tả công việc, miêu tả hành động, và hơn nữa đến khi cuối đời, tác giả nuối tiếc về quãng thời gian đã đi qua, bà giờ cũng không còn nữa, chỉ còn là nấm mồ thôi.


    Tác giả đã thổi hồn mình vào trong từng con chữ để làm tăng lên giá trị biểu đạt cho cả tác phẩm, hình tượng người bà là một hình mẫu đẹp, làm tăng lên giá trị biểu đạt trong tác phẩm, đó là hình ảnh đẹp, mang hình mẫu lý tưởng trong tác phẩm.

    Ảnh minh họa (Nguồn internet)
    Ảnh minh họa (Nguồn internet)
  5. Đò Lèn là tác phẩm Nguyễn Duy viết năm 1983 trong dịp trở về quê hương. Những hồi ức về quê hương đã thôi thúc nhà thơ viết về những ngày thơ ấu của mình, đó là những kỉ niệm bên người bà yêu thương. Trong bài thơ hình ảnh người bà hiện lên gần gũi, chân thực mà cũng vô cùng cảm động. Những kỉ niệm giản dị nhưng sâu nặng bên bà của tác giả có sức lay động chân thành, nó cũng như “tấm vé” đưa chính những độc giả về với tuổi thơ của chính mình.


    Mở đầu bài thơ, tác giả nhớ về những ngày thơ ấu, những trò chơi thân thuộc thuở nhỏ. Và ngay trong những dòng hồi ức đầu tiên, hình ảnh người bà cũng xuất hiện thật tự nhiên với bao tình cảm thân thương nhất:


    “Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

    Níu váy bà đi chợ Bình Lâm

    Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

    Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”


    Từ khi còn rất nhỏ, tác giả Nguyễn Duy từng “níu váy” bà để đến những phiên chợ quê, từng vui chơi những trò chơi con nít quen thuộc tại vành tai tượng phật và những trò chơi nghịch ngợm “ăn trộm nhãn chùa Trần”. Người cháu cũng từng theo bà đến những chùa chiền để cầu mong những điều tốt đẹp “chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng”, hương thơm của huệ trắng và hương trầm cũng đã trở thành một phần của tiềm thức tuổi thơ.


    “Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

    Chân đất đi đêm xem đèn Sòng

    Mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

    Điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”


    Có thể thấy tuổi thơ của tác giả cũng bình dị như bao đứa trẻ nào khác lớn lên ở miền quê, cuộc sống có thể thiếu thốn về vật chất nhưng lại vô cùng đủ đầy về tinh thần. Hình ảnh người bà thân yêu của tác giả còn hiện lên qua những công việc nặng nhọc để nuôi lớn đứa cháu thơ “bà mò cua xúc tép ở đồng Quan”, đi “gánh chè Ba Trại”.


    “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

    Bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

    Bà đi gánh chè xanh Ba Trại

    Quán Cháo, Đồng Giao thập từ những đêm hàn”


    Từ nhỏ tác giả đã sống cùng với bà nên bà không chỉ đóng vai trò là một người bà mà còn thực hiện trách nhiệm của người bố, người mẹ. Bao gánh nặng gia đình đều đè nặng lên đôi vai gầy yếu của bà. Sự thơ ngây của tuổi thơ khiến người cháu chưa thấu hiểu được nỗi vất vả của bà nhưng trong cảm nhận của người cháu bà cũng hiền từ, bao dung như tiên, phật, thần thánh.


    “ Tôi trong suốt giữa hai bờ hư- thực

    Giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần

    Cái năm đói củ dong riềng luộc sượng

    Cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”


    Không chỉ giàu yêu thương, tần tảo mà bà còn là một người phụ nữ kiên cường hơn bất cứ ai. Trong mưa bom bão đạn bà vẫn kiên cường chống đỡ để trở thành chỗ dựa vững chắc cho đứa cháu:


    “Bom Mĩ dội, nhà bà tôi bay mất

    Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

    Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

    Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”


    Trong cái dữ dội của cuộc chiến tranh, bom Mĩ đã tàn phá hết quê hương, xóm làng, cả ngôi nhà nhỏ của hai bà cháu cũng bị phá hủy. Cả chùa chiền, thánh, phật cũng bay theo bom đạn của giặc Mĩ. Thế nhưng một người trần mắt thịt như bà lại vẫn kiên cường đứng ở ga Lèn bán trứng. Cái khốc liệt của chiến tranh có thể làm mất đi đời sống tâm linh nhưng sức sống mạnh mẽ của con người thì không gì có thể phá hủy nổi. Bà vẫn đi bán trứng để mưu sinh, để chăm lo cho sự lớn khôn của đứa cháu.


    Khi đã trưởng thành, đi lính người cháu đã thấu hiểu được những vất vả hi sinh của bà nhưng cũng đã muộn vì bà đã không còn “bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”. Dù có xót xa, nuối tiếc nhưng tình cảm thiêng liêng của người cháu dành cho bà vẫn luôn đáng trân quý, đáng trân trọng như thế, tình cảm ấy như ánh sáng soi đường để người cháu tiếp tục cầm súng thực hiện trách nhiệm bảo vệ sự sống, sự bình yên của đất nước, quê hương.

    Ảnh minh họa (Nguồn internet)
    Ảnh minh họa (Nguồn internet)
  6. Nếu trong thơ của Bằng Việt hình ảnh người bà được gắn với hình ảnh bếp lửa thì trong thơ Nguyễn Duy hình ảnh người bà lại gắn với những vất vả, cơ cực của cuộc sống hàng ngày. Hình ảnh ấy đã gợi nhắc cho chúng ta nhớ về mối tình cảm thiêng liêng đó chính là tình bà cháu.


    “Đò Lèn” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1983 trong một lần nhà thơ trở về quê hương, sống với những kí ức đan xen nhiều buồn vui thời thơ ấu. Hình ảnh người bà hiện lên là một người yêu thương cháu tha thiết. Ngay từ thuở nhỏ, nhà thơ đã níu váy bà đi chợ và đi đến những nơi chùa chiền để cầu mong những điều tốt đẹp. Người bà luôn giữ cho mình cái tâm hướng thiện. Chẳng vậy mà tác giả ngay từ nhỏ đã rất quen thuộc với việc:


    “Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

    níu váy bà đi chợ Bình Lâm

    bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

    và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

    Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

    chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

    mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

    điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”


    Nhờ có bà mà người cháu không chỉ biết đền Cây Thị, đền Sòng, biết mùi huệ trắng, khói trầm mà còn biết cả điệu hát văn của cô đồng. Đó là những kí ức về tuổi thơ tuy gian khó, thiếu thốn về mặt vật chất nhưng đời sống tinh thần thì khá phong phú.


    Hình ảnh người bà còn hiện lên qua những công việc vất vả như “bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan”, đi “gánh chè ở Ba Trại”, “bán trứng ở ga Lèn”,… Người bà ấy như gánh thêm cả phần trách nhiệm của cha mẹ đứa cháu, gánh bao nỗi cơ cực, đắng cay trên đôi vai đã yếu dần đi theo thời gian. Tác giả vì mải chơi, vô lo vô nghĩ nên không biết bà cơ cực thế, bà đã hi sinh rất nhiều cho cậu vậy mà cậu lại trả ơn bà bằng sự vô tâm. Người bà thật giống với tiên, Phật, thánh, thần bởi tình yêu thương bao la, sự nhân hậu, hiền từ đối với người cháu nhỏ. Không chỉ vậy, bà còn là một người phụ nữ kiên cường, anh hùng biết nhường nào:


    “Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất

    đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

    thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

    bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”


    Những năm chiến tranh, bom Mĩ dội xuống nước ta rất khốc liệt, nó đã làm bay căn nhà của bà, bay cả đền, chùa, cả thánh với Phật, đời sống tinh thần, tâm linh của bà cũng bị bay theo bom đạn của Mĩ. Vậy mà bằng sức mạnh của mình, bà vẫn đi bán trứng ở ga Lèn. Mất mát, sự phá hủy của cuộc chiến tranh phi nghĩa không làm bà chùn bước mà ngược lại, nó tiếp thêm cho bà sức mạnh để bà kiên cường đấu tranh với chính cuộc sống nghèo khó này. Bà đi bán trứng để tiếp tục cuộc sống mưu sinh nhưng cũng là để chăm sóc, lo cho từng bữa ăn của người cháu.


    Và đến cuối bài thơ, người bà hiện lên trong sự tiếc nuối ngậm ngùi của tác giả. Khi tác giả biết thương bà, nhận ra được sự vất vả của bà thì đã quá muộn, vì lúc đó “bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”. Còn gì đau xót hơn như thế khi chúng ta không biết yêu thương, trân trọng, hiểu ra nỗi cơ cực của bà để đến khi bà đã xa về một thế giới khác.

    Ảnh minh họa (Nguồn internet)
    Ảnh minh họa (Nguồn internet)
  7. Tuổi thơ của ai chẳng có những kí ức về người bà của mình. Khó có thể quên những đêm trời lạnh được bà ôm trong lòng và nghe những câu chuyện cổ tích bà kế. Chính vì vậy, viết về người bà, chính là một mảng để tài thu hút khá nhiều cây bút. Tiêu biểu là Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt, và “Đò lèn” của Nguyễn Duy.


    Bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy được viết nãm 1983, trong một dịp nhà thơ trở về quê hương, sống với những hồi ức đan xen nhiều buồn vui thời thơ ấu. Trong dòng hồi ức xưa hình ảnh người bà trong kí ức của tác giả đã hiện lên thật đặc biệt. Nguyễn Duy sống với bà ngoại từ nhỏ cho nên bà ngoại là hình ảnh rất đỗi gần gũi và quen thuộc đô'i với nhà thơ. Trước hết, hình tượng người bà hiện lên với sự vất vẳ, lam lũ:


    “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

    bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

    bà đi gánh chè xanh Ba Trại

    quán cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”.


    Trước khi nhận ra sự cơ cực, vất vả để lo toan cho cuộc sống của người bà, tác giả đã tái hiện lại tuổi thơ của mình:


    “Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

    níu váy bà đi chợ Bỉnh Lăm

    bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

    và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

    thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

    chân đất đi đêm xem lễ đền sòng”


    Tác giả đã nhìn lại chính minh một cách chân thực, đó là sự vô tư, ham chơi và đôi khi còn có cả những trò nghịch dại. Và khi tác giả nhận ra “Tôi đâu biết, bà tôi cơ cực thế”. Câu thơ như sự giật mình của tác giả về sự vất vả của bà. Từ “thập thững” đã nói lên tất cả. Nếu trong bài thơ Bên kia sông Đuông, nhà thơ Hoàng Cầm viết:


    “Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong

    Bước cao thấp bên bờ tre hun hút”


    “Bước cao thấp” mới chỉ gợi lên liên tưởng đến hình ảnh con đường không bằng phẳngnhưng khi Nguyễn Du viết “Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn” Thì bạn đọc không chỉ thấy hiện ra một con đường gồ ghề, một đêm đông buốt giá mà từ “thập thững” còn đem lại cảm giác gánh hàng đang nặng trĩu trên vai người bà. Chính những vất vả ấy đã khiến tác giả không chỉ thương bà mà tác giả còn thấy bà có những vẻ đẹp của tiên, phật, thánh, thần


    “Tôi trong suốt đời giữa hai bờ hư - thực

    giữa bà tôi và tiên, phật, thánh, thần”


    Không những thế, hình tượng người bà trong bài thơ còn có tinh thần lạc quan, vượt lên mọi khó khăn mà cuộc chiến tranh đem lại.


    “Bọn Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất

    đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

    thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

    bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn"


    Vậy là, chỗ che mưa, che nắng, sớm tôi đi về đã bị bom Mĩ đánh bay mất nhưng không vì thế mà bà đầu hàng trước khó khăn trái lại bà vẫn vượt lên hoàn cảnh để lao động. Có thể thấy tình thương của bà dành cho tác giả luôn thầm lặng, bà luôn mong mỏi những điều tốt đẹp nhất đến với người cháu của mình:


    “Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại

    dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi

    khi tôi biết thương bà thì đã muộn

    bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”


    Khép lại bài thơ là một nỗi buồn của tác giả khi bà đã không còn, người cháu giờ đây đã lớn trở về thăm bà thì “ bà chỉ còn là một nấm cỏ”.


    Bài thơ Đò Lèn không chỉ đơn thuần là đòng hoài niệm về tuổi thơ xừa mà bài thơ còn là lòng cảm ơn của người cháu đối với bà.

    Ảnh minh họa (Nguồn internet)
    Ảnh minh họa (Nguồn internet)




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy