Top 9 Bài văn phân tích bài thơ "Thơ tình người lính biển" hay nhất
Ngay từ những ngày còn là một cậu bé, Trần Đăng Khoa đã dành nhiều tình yêu thương và sự cảm phục cho anh bộ đội. Chính vì vậy, khi trở thành một người lính, ... xem thêm...anh đã mang hết niềm tin, hoài bão để sống sao cho xứng đáng là anh bộ đội Cụ Hồ. “Thơ tình người lính biển” là một thông điệp về lẽ sống của người lính biển mà Trần Đăng Khoa muốn gửi tặng cho tất cả đồng đội của mình, những người đang ngày đêm canh giữ bầu trời và vùng hải đảo của Tổ quốc.
-
Bài tham khảo số 1
Trần Đăng Khoa sáng tác bài Thơ tình người lính biển năm 1981, lúc đó ông đang là người lính hải quân. Lấy cảm hứng từ tình yêu của người lính, cuộc chia tay người yêu trên bến cảng, bài thơ đã thể hiện ngọn lửa tình yêu nồng cháy của người lính gửi đến người yêu phương xa, giúp người đọc hiểu thêm phần nào về đời sống nội tâm của những người lính.
Khổ thơ đầu tiên là hình ảnh người lính khi ra khơi, khung cảnh chia tay với người yêu thương thật xúc động, giữa xung quanh là gió biển, cảnh sắc lãng mạn, tình tứ
Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng.
Hình ảnh những con buồm trắng, mây treo ngang trời gợi đến khung cảnh thật đẹp, thật tình ngoài biển khơi, gây xúc động về hoàn cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn của người lính. Phút chia tay, chân anh dạo bước trên bến cảng, hình ảnh người lính đã được khắc họa trong một tư thế thật đẹp, tuy lòng nhớ thương người yêu da diết nhưng vẫn sẵn sàng tư thế chiến đấu phương xa.Hình ảnh tương phản ở khổ thơ thứ hai “ biển ồn ào”, “em lại dịu êm” gợi liên tưởng đến bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ.
Trong mắt của người lính dáng hình của em tuyệt đẹp với phẩm chất dịu êm, hiền hòa. Phút chia tay em chỉ nói vài câu rồi mỉm cười lặng lẽ để trấn an người đi xa. Nhưng anh cảm nhận rõ ràng trong đôi mắt của em là những giọt nước mắt lưu luyến, bịn rịn không muốn xa anh.Đến khổ thơ thứ ba là tư thế tuyệt đẹp của người lính trên hải đảo xa xôi, đó là lúc khi thành phố lên đèn, cuộc sống của mọi nhà, mọi người đều bình yên thì con tàu anh đang buông neo dưới những chùm sao xa lắc, giữa mênh mông sông nước biển trời, người lính lại thăm thẳm nỗi nhớ với người phương xa. Biển trời thăm thẳm, sóng biển dữ dội và đại dương bao la nhưng anh không cô độc vì trong tim anh luôn có em.
Khổ thơ thứ tư được xem là một trong những khổ thơ hay nhất của cả bài thơ. Ở đó là những hình ảnh hiện thực đầy nghiệt ngã của đất nước trong những ngày sau chiến tranh. Dù chiến tranh đã lùi xa được nhiều năm nhưng những sóng gió và thử thách chưa bao giờ hết, người lính cảm nhận
Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng
Đó là sự nhạy cảm và rất tinh tế của người lính khi đang làm nhiệm vụ. Anh biết vì đất nước đã trải qua nhiều gian lao, vì có rất nhiều người đã ngã xuống, những vành tang trắng vẫn quấn trên mái đầu nên anh càng phải quyết tâm hơn để hoàn thành nhiệm vụ
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Các ý thơ được tách riêng thành từng câu, với các dấu chấm ở giữa dòng gợi tư thế và hoàn cảnh làm việc đầy khó khăn, thiếu thốn của người lính. Anh đứng gác một mình giữa đêm khuya và đảo vắng, khó khăn đủ bề, thiếu thốn nhiều thứ. Hoàn cảnh làm việc là vô cùng vất vả nhưng với bản lĩnh của người lính trẻ anh vẫn sẵn sàng với tư thế chủ động để quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ phó thác của quê hương.Trở đi trở lại bài thơ là hình ảnh biển một bên và em một bên… với dấu chấm lửng đằng sau tạo cho người đọc sự đồng cảm và sẻ chia của sự xa cách trong tình yêu đôi lứa, những tâm sự thiết tha vẫn chưa nói hết của người lính trẻ. Câu thơ kết ở mỗi khổ thơ ngân nga như giai điệu ngọt ngào thể hiện nỗi nhớ thương da diết của người lính gửi về phương xa. Trong khoảnh khắc này biển và em đã hòa làm một. Biển chính là em, là động lực để người lính vững chắc tay súng nơi phương xa, bảo vệ bình yên cho dân tộc, tổ quốc.
Bài thơ được làm theo thể thơ tự do, sử dụng rộng rãi các biện pháp tu từ so sánh, lặp câu thơ biển một bên…, các hình ảnh so sánh, tương phản, vừa thể hiện vẻ đẹp lãng mạn của người lính, vừa truyền tải thông điệp ý nghĩa sâu sắc. Đó là khúc ca đầy tự hào về những người lính đã hy sinh tình cảm riêng vì nhiệm vụ chung của quê hương, dân tộc.
Vừa mãnh liệt, vừa sâu lắng với âm điệu khi trầm, khi bổng, khi nhanh, khi chậm. Giọng điệu ngân nga tha thiết, dạt dào trong hình ảnh “biển một bên và em một bên” mang đến sự lan tỏa sâu rộng về tình yêu tổ quốc. Tình yêu đôi lứa tuy là tình cảm riêng nhưng rộng hơn cũng là tình yêu tổ quốc của người lính trẻ.
-
Bài tham khảo số 2
Có một mảng thơ rất hay viết về đề tài chiến tranh, đó là cuộc chia tay của người lính ra trận. Nguyễn Đình Thi có “Chia tay trong đêm Hà Nội”, Nguyễn Mỹ có “Cuộc chia ly màu đỏ” và Trần Đăng Khoa với “Thơ tình người lính biển”.
Tác phẩm được sáng tác năm 1981 khi ông chính thức thuộc biên chế của Bộ Tư lệnh Hải quân và có dịp đi nhiều vùng biển, đến các đơn vị hải quân (từ những hạm đội, hải đoàn đến tận quần đảo Trường Sa), vì vậy ông có nhiều điều kiện để trực tiếp sống cùng và thấu hiểu cuộc sống người lính đảo. Nó diễn tả đúng trình tự thời gian từ lúc nhân vật “anh” chia tay với nhân vật “em” ở bến cảng tới lúc “anh” làm nhiệm vụ ở đảo xa, đan xen suy tư vừa cá nhân vừa mang tính thời đại và nó đã thể hiện thành công vẻ đẹp tâm hồn người lính biển.
Ngay từ những vần thơ đầu tiên, hiện thực đã được tái hiện một cách đầy lãng mạn:
“Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên..”
Thi sĩ mở đầu văn bản bằng ba từ thật đơn giản: “Anh ra khơi” và đằng sau ba từ đấy lại đong đầy tâm trạng của chiến sĩ hải quân. Người lính chia tay bạn gái để lên tàu làm nghĩa vụ bảo vệ biển trời thân yêu của Tổ quốc.
Một mối tình thật đẹp và lưu luyến nhưng cũng rất hiểu, thông cảm cho nhau về nhiệm vụ người bạn trai phải gánh vác. Thế nên, trong thời khắc chia xa, cả hai rảo bước đi dạo trên bến cảng như không biết xung quanh có gì và đây có lẽ là cái hạnh phúc dung dị hiếm hoi mà họ được bên nhau vì anh có thể một đi không trở lại. Ở đó, những cánh buồm trắng được treo ngang trên bầu trời xanh thẳm, cao vời vợi bởi những áng mây bồng bềnh (biện pháp nhân hóa “treo ngang trời”) giống như đang báo hiệu đoàn thuyền đưa anh đến biển đảo xa xôi chuẩn bị cập bến và họ sắp phải xa nhau.
Dấu chấm lửng đặt sau câu thơ “Biển một bên và em một bên” là một dụng ý nghệ thuật của tác giả, tạo cho người đọc sự sẻ chia, đồng cảm với sự xa cách trong tình yêu tuổi trẻ và tâm sự thiết tha chưa kịp nói hết, chưa kịp dãi bày. Tiếp theo, nhà thơ đã khắc họa tính cách của biển và em:
“Biển ồn ào, em lại dịu êm
Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ
Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên..”
Chỉ một lần dạo trên bến cảng mà sự cồn cào của biển, sự dịu êm của em đã lan tỏa cả lòng anh. Ông dùng biện pháp đối lập “ồn ào” – “dịu êm”, nhân hóa “biển ồn ào” để cho thấy biển cả mênh mông với những con sóng cuồn cuộn như thôi thúc tinh thần, như vẫy gọi anh hãy mau lên đường đi chiến đấu và sự dịu hiền, kín đáo ở em. Hai hình ảnh trên ngỡ như tương phản nhau, nhưng trong hoàn cảnh này, đây lại chính là sự tương thuộc bởi cả hai đã in đậm khắc sâu trong trái tim của anh rồi.
Từng tiếng nói êm ái, từng tiếng cười dịu dàng của em đều rất tinh tế khi em chỉ buông câu nói da diết ái tình và nén nỗi đau chia ly đầy bịn rịn của người ở lại vào đáy lòng, rồi lặng lẽ mỉm cười như động viên, khích lệ. Nụ cười ấy chính là sợi dây vô hình níu giữ anh, khiến tâm hồn anh xao xuyến, bâng khuâng, khiến anh so sánh, ví von bản thân “như con tàu lắng sóng từ hai phía”: Biển và em. Được gần em hay gần biển đều là niềm khát khao cháy bỏng của người lính đảo.
Thực ra, khi yêu, các anh cũng như bao người bình thường khác, đều muốn bên cạnh người mình yêu. Nhưng khi đất nước chưa yên bình, họ phải kìm nén ước muốn đó lại. Về điều này, thi sĩ Phùng Quán trong bài thơ “Hôn” đã nói hộ các anh:
“Khi người ta yêu nhau
Hôn nhau trong say đắm
Còn anh, anh yêu em
Anh phải đi ra trận”
Ở khoảnh khắc đó, người lính chợt nhận ra:
“Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trôi nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên..”
Điệp ngữ “ngày mai” khẳng định nơi anh đến thật xa xôi và có thời không cách trở, trải dài vô tận với chùm sao xa lắc, với thăm thẳm nước trôi (đảo ngữ “thăm thẳm”), tuy vậy, anh vẫn thực hiện nghĩa vụ bằng tâm thế lạc quan yêu đời. Trước biển trời bao la, con người thật nhỏ bé và tác giả khẳng định dù một mình nhưng “anh không cô độc” bởi trong trái tim, anh luôn có tình yêu Tổ quốc, tình yêu biển cả, có gia đình, đồng đội và bóng dáng của em. Tiếp đến khổ bốn, thi nhân đã khơi gợi lại năm tháng khó khăn của dân tộc:
“Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Bão táp chưa ngưng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên..”
Ông nhân hóa “đất nước gian lao” để thể hiện nước ta trong giai đoạn ấy là một mảnh đất nhỏ bé đầy sự cực nhọc vì gánh nặng của chiến tranh, của những kẻ thù không ngừng gây chiến, muốn biến Việt Nam thành thuộc địa và còn cả của khí hậu, thời tiết đầy khắc nghiệt nữa, từ đó làm ta nhớ tới hai câu thơ trong “Mùa xuân nho nhỏ”:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao”.
Hình ảnh ẩn dụ “những vành tang trắng” gợi vành khăn tang hay chính là nỗi đau của những nhân dân có người thân chết vì thiên tai, bão tố khắc nghiệt và gợi nỗi đau của đất nước đã phải đối mặt, trải qua không chỉ là mất mát của thiên tai mà còn là mất mát của chiến tranh. Chính vì thế, anh đã nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc và sẵn sàng đến nơi đầu sóng ngọn gió để hoàn thành nhiệm vụ:
“Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng”.
Câu thơ ngắt nhịp như dồn nén, làm hình tượng chiến sĩ hải quân hiện lên nhỏ bé giữa thiên nhiên rộng lớn, vắng vẻ nhưng vẫn rất hiên ngang, hào hùng, kiên cường dũng cảm với tư thế cầm chắc tay súng để giữ gìn nền độc lập của nước nhà và qua đó gợi liên tưởng đến bốn câu thơ đầu trong bài “Người lính đảo” của tác giả Nguyễn Lan Hương:
“Nơi anh đứng trời xanh và gió lộng
Giữa mênh mông sóng nước đại dương
Lắm gian nguy mà dạ vẫn kiên cường
Chắc tay súng mà bền gan vững trí”
Khép lại bài thơ, thi sĩ nhấn mạnh tình cảm, lẽ sống của anh đã và sẽ mãi mãi dành cho “biển” và “em”:
“Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ còn anh với cỏ
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên..”
“Vòm trời” ở đây chính là vòm nhà của anh và đồng đội, anh ngước lên nhìn trời để tìm ra niềm hi vọng và sự thư thái bình yên trong tâm hồn. Trong bài có nhiều giả định, các câu thơ giả định này tạo ra từ những cơn sóng vỗ bờ tha thiết, day dứt không yên.
Giả định để khẳng định khi “không em”, “không biển”, “chỉ còn anh với cỏ” thì anh vẫn sẽ luôn trung thành với tình yêu đất nước và thủy chung với tình yêu lứa đôi dẫu bao bất trắc có thể xảy ra. Đó là tình yêu vĩnh hằng thiêng liêng của người lính biển. Và biển là hình ảnh ẩn dụ cho tình yêu quê hương đất nước (đại diện cho cái rộng lớn) còn em là hình ảnh ẩn dụ cho tình yêu đôi lứa (đại diện cho cái nhỏ bé), từ đó cho thấy cái chung và cái riêng cùng vun đắp cho khát vọng niềm tin của người lính.
Hơn nữa, câu “Biển một bên và em một bên” được điệp lại năm lần cuối mỗi khổ đã khẳng định trong tâm hồn anh, tình em luôn hòa quyện một cách hài hòa vs tình biển trời Tổ quốc.
Tóm lại, bằng việc sử dụng giọng điệu sâu lắng, âm hưởng trầm bổng, dạt dào thương nhớ, câu từ giản dị nhưng giàu sức gợi hình gợi cảm, kết hợp nhiều biện pháp nghệ thuật: So sánh, nhân hóa, ẩn dụ, điệp ngữ, đối lập tương phản, Trần Đăng Khoa đã khắc họa một cách sâu sắc mối tình sâu đậm đầy cảm động giữa anh, em và biển, qua đó thể hiện anh là người sống có lí tưởng với những ý nghĩ lớn lao và cho thấy anh rời xa em, ra đi đấu tranh không có nghĩa anh không yêu em, mà là anh rất yêu em, anh làm vậy là để em được sống trong hòa bình.
“Biển ồn ào, em lại dịu êm” trở đi trở lại như một điệp khúc, như những đợt sóng da diết, cồn cào mà hào hùng, kiêu hãnh của tuổi trẻ và đó là ngọn sóng của thi ca bất diệt sống mãi với thời gian.
-
Phong cách thơ Trần Đăng Khoa?
Trần Đăng Khoa là một nhà thơ nổi bật của nền văn học Việt Nam hiện đại, nổi tiếng với phong cách nghệ thuật độc đáo và sáng tạo. Dưới đây là một số đặc điểm chính trong phong cách nghệ thuật của ông:
- Sử Dụng Hình Ảnh Tượng Đặc Sắc
- Hình ảnh rõ nét và sinh động: Trần Đăng Khoa sử dụng các hình ảnh cụ thể và sinh động để tạo nên những bức tranh thơ vừa chân thực vừa lãng mạn. Ví dụ, trong bài thơ "Người lính biển", hình ảnh "Biển một bên và em một bên" không chỉ miêu tả tình yêu mà còn phản ánh nỗi nhớ và sự phân chia giữa nhiệm vụ và tình cảm.
- Tạo hình ảnh tượng trưng: Ông thường sử dụng các hình ảnh tượng trưng để truyền tải những cảm xúc và ý nghĩa sâu xa, như hình ảnh biển, bão tố, và tàu thuyền, tạo nên sự liên kết giữa con người và thiên nhiên.
- Ví dụ: "Biển một bên và em một bên"
- Phân tích: Hình ảnh "Biển một bên và em một bên" không chỉ là hình ảnh cụ thể mà còn mang tính tượng trưng. Biển biểu trưng cho nhiệm vụ, công việc và những thử thách; còn em đại diện cho tình yêu, sự ấm áp và sự yên bình. Sự phân chia này thể hiện sự mâu thuẫn và sự lựa chọn giữa tình cảm cá nhân và trách nhiệm nghề nghiệp.
- Sự Đối Lập và Tương Phản
- Tương phản trong cảm xúc: Trần Đăng Khoa thường khai thác sự tương phản trong cảm xúc và hình ảnh để làm nổi bật ý tưởng của bài thơ. Ví dụ, sự đối lập giữa "biển ồn ào" và "em dịu êm" trong bài thơ "Người lính biển" nhấn mạnh sự khác biệt giữa công việc và tình yêu, giữa nỗi cô đơn và niềm an ủi.
- Đối lập giữa hiện thực và mơ mộng: Ông thường kết hợp yếu tố hiện thực với các yếu tố mơ mộng, làm cho thơ của ông vừa có sức hút của hiện thực vừa mang đậm màu sắc tưởng tượng.
- Ví dụ: "Biển ồn ào, em lại dịu êm"
- Phân tích: Sự đối lập giữa "biển ồn ào" và "em dịu êm" làm nổi bật sự tương phản giữa cuộc sống ồn ào của người lính biển và sự yên bình mà tình yêu mang lại. Đây là một cách hiệu quả để nhấn mạnh cảm giác cô đơn và sự an ủi mà người lính tìm thấy từ người yêu.
- Tính Biểu Cảm Cao
- Cảm xúc chân thật: Thơ của Trần Đăng Khoa thường mang đến cảm xúc chân thành và sâu lắng, thể hiện tâm trạng của nhân vật trong những hoàn cảnh đặc biệt. Tình yêu, nỗi nhớ, và sự hy sinh thường là những chủ đề chính, phản ánh những cảm xúc sâu thẳm và chân thực.
- Sự tự sự và nội tâm: Ông thường sử dụng các yếu tố tự sự để khám phá và bộc lộ cảm xúc nội tâm của nhân vật, từ đó tạo ra một kết nối mạnh mẽ với người đọc.
- Ví dụ: "Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên / Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng"
- Phân tích: Những câu thơ này diễn tả sự khó khăn và gian khổ trong công việc của người lính biển, thể hiện nỗi vất vả và sự hy sinh. Ngôn ngữ cụ thể và hình ảnh mạnh mẽ này tạo nên một cảm xúc chân thành và sâu lắng về trách nhiệm và nỗi đau của người lính.
- Ngôn Ngữ và Kết Cấu Độc Đáo
- Ngôn ngữ dễ tiếp cận nhưng sâu sắc: Trần Đăng Khoa sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, gần gũi với người đọc nhưng vẫn đầy chất thơ và ý nghĩa sâu sắc. Ông thường khéo léo chơi chữ và tạo ra những câu thơ dễ nhớ nhưng mang nhiều tầng ý nghĩa.
- Kết cấu thơ linh hoạt: Bài thơ của ông thường có kết cấu linh hoạt, không gò bó trong khuôn khổ cố định mà tự do trong việc chuyển tải ý tưởng và cảm xúc. Điều này giúp tạo ra sự mạch lạc và tự nhiên trong từng bài thơ.
- Ví dụ: "Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn / Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc"
- Phân tích: Câu thơ sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu và hình ảnh cụ thể ("thành phố lên đèn" và "chùm sao xa lắc") để tạo nên một bức tranh thơ mộng và lãng mạn. Kết cấu thơ linh hoạt cho phép việc chuyển đổi giữa các hình ảnh và cảm xúc diễn ra một cách tự nhiên, từ những khoảnh khắc hiện tại đến tương lai mơ mộng.
- Tinh Thần Lạc Quan và Đầy Hy Vọng
- Tinh thần lạc quan: Mặc dù có những bài thơ thể hiện nỗi đau và khó khăn, Trần Đăng Khoa thường kết thúc tác phẩm của mình bằng một thông điệp lạc quan và hy vọng, phản ánh niềm tin vào tình yêu và cuộc sống.
- Ví dụ: "Cho dù thế thì anh vẫn nhớ / Biển một bên và em một bên..."
- Phân tích: Dù có thể không còn người yêu và biển trong tương lai, người lính vẫn giữ trong lòng hình ảnh của cả hai. Đây là một thông điệp lạc quan và đầy hy vọng, phản ánh lòng trung thành và tình yêu vĩnh cửu, bất chấp những khó khăn và thử thách.
Tóm lại, phong cách nghệ thuật của Trần Đăng Khoa là sự kết hợp hài hòa giữa hình ảnh sinh động, sự tương phản cảm xúc, tính biểu cảm cao, ngôn ngữ gần gũi và kết cấu linh hoạt, cùng với tinh thần lạc quan và hy vọng. Những yếu tố này đã tạo nên một dấu ấn đặc biệt trong nền thơ ca Việt Nam.
- Sử Dụng Hình Ảnh Tượng Đặc Sắc
-
Nội dung cần có trong phân tích?
Khi phân tích bài thơ "Người lính biển" của Trần Đăng Khoa, bạn nên chú trọng vào các nội dung sau để có một phân tích sâu sắc và toàn diện:
- Giới thiệu chung về tác giả và bối cảnh sáng tác
- Tác giả: Trần Đăng Khoa, một nhà thơ nổi bật của nền thơ Việt Nam hiện đại, đặc biệt nổi tiếng với những tác phẩm về chủ đề lính biển và cuộc sống người lính.
- Bối cảnh sáng tác: Bài thơ "Người lính biển" có thể được viết trong bối cảnh chiến tranh hoặc thời kỳ gian khó, nơi người lính phải cân bằng giữa trách nhiệm và tình yêu.
- Tóm tắt nội dung bài thơ
- Nội dung chính: Bài thơ miêu tả hình ảnh của một người lính biển chuẩn bị ra khơi và sự chia tay với người yêu. Người lính cảm thấy sự phân chia giữa biển (nhiệm vụ) và người yêu (tình cảm), đồng thời thể hiện nỗi nhớ và sự hy sinh trong công việc.
- Phân tích hình ảnh và biểu tượng
- Hình ảnh chính: Biển, người yêu, tàu thuyền, bão tố, và các hình ảnh liên quan đến cuộc sống của người lính.
- Biểu tượng:
- Biển: Biểu trưng cho nhiệm vụ, công việc và những thử thách.
- Người yêu: Đại diện cho tình yêu, sự an ủi và cảm giác ấm áp.
- Tàu thuyền và chùm sao: Tượng trưng cho hành trình và hy vọng.
- Phân tích cấu trúc và ngôn ngữ
- Cấu trúc bài thơ: Được chia thành các khổ thơ với cấu trúc đối xứng, thường lặp lại hình ảnh "Biển một bên và em một bên" để nhấn mạnh sự đối lập và cảm xúc.
- Ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ cụ thể và sinh động: Sử dụng các hình ảnh rõ nét để tạo ra bức tranh thơ mộng và thực tế.
- Tạo hình ảnh tượng trưng và chơi chữ: Để làm nổi bật các cảm xúc và ý nghĩa sâu xa.
- Phân tích cảm xúc và ý nghĩa
- Cảm xúc của nhân vật: Nỗi nhớ, sự phân chia giữa nhiệm vụ và tình yêu, sự hy sinh và lòng trung thành.
- Ý nghĩa sâu xa: Bài thơ không chỉ phản ánh tình yêu và sự hy sinh của người lính mà còn tôn vinh tinh thần lạc quan và niềm tin vào tình yêu và cuộc sống dù phải đối mặt với những khó khăn.
- Tính nghệ thuật và giá trị tư tưởng
- Tính nghệ thuật: Phong cách thơ của Trần Đăng Khoa với việc sử dụng hình ảnh, cấu trúc và ngôn ngữ để tạo ra những hiệu ứng cảm xúc mạnh mẽ.
- Giá trị tư tưởng: Bài thơ thể hiện sự trung thành với nhiệm vụ và tình yêu, đồng thời phản ánh tinh thần kiên cường, lạc quan và hy vọng của người lính.
- Tổng kết và đánh giá
- Tổng kết: Tóm tắt các điểm chính trong phân tích, nhấn mạnh những đặc điểm nổi bật của bài thơ.
- Đánh giá: Đưa ra những đánh giá cá nhân về hiệu quả của bài thơ trong việc truyền tải cảm xúc và ý tưởng, cũng như sự đóng góp của nó đối với nền thơ ca Việt Nam.
Việc bao quát các nội dung này sẽ giúp bạn có một phân tích toàn diện và sâu sắc về bài thơ "Người lính biển" của Trần Đăng Khoa.
- Giới thiệu chung về tác giả và bối cảnh sáng tác
-
Bài tham khảo số 3
Ngay từ những ngày còn là một cậu bé, Trần Đăng Khoa đã dành nhiều tình yêu thương và sự cảm phục cho anh bộ đội. Chính vì vậy, khi trở thành một người lính, anh đã mang hết niềm tin, hoài bão để sống sao cho xứng đáng là anh bộ đội Cụ Hồ.
“Thơ tình người lính biển” là một thông điệp về lẽ sống của người lính biển mà Trần Đăng Khoa muốn gửi tặng cho tất cả đồng đội của mình, những người đang ngày đêm canh giữ bầu trời và vùng hải đảo của Tổ quốc.
Nhắc tới Trần Đăng Khoa, bạn đọc lại nhớ về một cậu bé – một nhà thơ “thần đồng” đã có rất nhiều bài thơ viết về các chú bộ đội. Lúc còn nhỏ, Trần Đăng Khoa đã rất yêu quý, ngưỡng mộ các chú bộ đội. Khoa đã từng reo lên khi phát hiện các chú bộ đội là những con người phi thường trong chiến đấu nhưng lại rất đỗi thân thương, bình dị trong cuộc sống hàng ngày. Trong bài thơ “Gửi theo các chú bộ đội”, Khoa đã viết:
“Cháu nghe chú đánh những đâu
Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi
Đến đây chỉ thấy chú cười
Chú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi.”
Chính từ lòng cảm phục đó, Trần Đăng Khoa đã nguyện đi theo con đường mà các chú bộ đội đã chọn. Và anh đã trở thành một người lính trên đảo Trường Sa. Khi đã trở thành một người lính, Trần Đăng Khoa lại say sưa viết về người lính, nhưng bây giờ là cái say sưa của người trong cuộc. Trần Đăng Khoa hiểu được cả những điều sâu kín, hiểu cả những phút xao lòng, bịn rịn, lưu luyến của người lính trước giờ phút chia tay:
“Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên.
Biển ồn ào, em lại dịu êm
Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ
Anh như con tàu, lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên.”
Biển ồn ào như vẫy gọi, còn em chỉ mỉm cười lặng lẽ. Nhưng chính nụ “cười lặng lẽ” của em lại là một sợi dây vô hình níu giữ anh, làm lòng anh xao xuyến, băn khoăn, lắng lòng mình về hai phía: “Biển” và “Em”. Em hay biển đều là những hình ảnh thân thương, diệu kì ngự trị trong trái tim anh. Được gần em hay gần biển đều là niềm khát khao cháy bỏng của người lính đảo.
Thực ra, khi yêu, người lính cũng như bao nhiêu người bình thường khác, ai chẳng muốn được gần người mình yêu. Chỉ có điều, khi đất nước chưa được bình yên, người lính đã biết nén niềm khao khát đó lại. Về điều này, nhà thơ Phùng Quán đã nói hộ cho các anh:
Khi người ta yêu nhau
Hôn nhau trong say đắm
Còn anh, anh yêu em
Anh phải đi ra trận
Yêu nhau ai không muốn
Gần nhau và hôn nhau
Nhưng anh, anh không muốn
Hôn em trong tủi sầu.
(Hôn)
Chính vì rất yêu, rất tôn trọng người mình yêu, người lính muốn mình là hình ảnh đẹp, là người sống có lí tưởng trong mắt người yêu. Người lính biển ở đây cũng thế:
“Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trôi nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên.”
Điệp từ “ngày mai” vừa thể hiện sự quyết tâm đến với hải đảo, lại vừa để lộ sự bịn rịn, lưu luyến của người lính khi phải chia tay với người mình yêu. Tạm biệt người yêu, anh đến với vùng hải đảo xa xôi của Tổ quốc. Nơi chỉ có nắng, gió, cát dài và mênh mông là biển cả, là “thăm thẳm nước trôi”. Tiếng vẫy gọi của biển cả đã mang bước chân anh đến với hải đảo xa xôi, và hành trang anh mang theo là hình bóng em được cất giữ trong tim. Để bên anh luôn có biển và em.
Trước không gian bao la của biển cả, hình ảnh người yêu lại hiện hữu rõ hơn, sưởi ấm tâm hồn anh và xoá tan nỗi cô đơn mà khoảng cách không gian đã tạo ra. Được gần nhau để yêu nhau, nghĩ về nhau, say đắm trong nhau để rồi khó quên nhau là điều dễ hiểu. Song, trong xa cách mà luôn nghĩ về nhau, giữ trọn hình ảnh trong nhau, đó mới thực sự là cung bậc say đắm của tình yêu.
Cái hay, cái chân thực của bài thơ là ở chỗ, tác giả không hề đặt ra cái ranh giới và sự lựa chọn giữa tình yêu biển cả, tình yêu Tổ quốc với tình yêu đôi lứa. Mà ở đây, cả hai thứ tình cảm cao đẹp này hoà quyện vào nhau, tiếp hợp cho nhau tạo nên một bản tình ca đẹp.
Tình yêu đôi lứa chính là ngọn lửa ấm áp xua tan nỗi cô đơn, trống trải trong người lính, giúp anh có thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn thử thách, vững chắc tay súng bảo vệ miền biên cương của tổ quốc. Và chính tình yêu Tổ quốc, tình yêu biển cả là thước đo cho sự cao đẹp của tình yêu đôi lứa, làm cho tình yêu đôi lứa có ý nghĩa hơn, giàu giá trị nhân văn hơn.
Trong cái say đắm riêng tư, con người ta còn biết lo nghĩ cho sự bình yên của Tổ quốc, đó mới là điều đáng trọng:
“Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên.
Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên.”
Bằng cách sử dụng các hình ảnh hết sức quen thuộc, có tính biểu trưng cao, Trần Đăng Khoa đã để hình ảnh “Biển” và “Em” luôn xuất hiện bên nhau, đi liền nhau trong suốt bài thơ; cùng với lối kết cấu đặc biệt, bài thơ gồm năm khổ, thì cả năm khổ thơ đều được kết thúc bằng hình ảnh “Biển một bên và em một bên”. Điều đó đã giúp cho bạn đọc luôn cảm nhận được rằng trong mọi nơi, mọi lúc, mọi khoảnh khắc thì “biển” và “em” đều ngự trị trong trái tim và tâm hồn người lính biển, đem lại niềm tự hào, niềm hạnh phúc cho anh.
Khổ thơ cuối một lần nữa khẳng định tình cảm, lẽ sống của người lính biển đã và sẽ mãi mãi dành cho “Biển” và “Em”:
“Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ còn anh với cỏ.
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên.”
Bài thơ là một bản tình ca đẹp về người lính biển. Người lính biển trong bài thơ không chỉ biết sống cho lí tưởng, cho tình yêu hải đảo, tình yêu Tổ quốc, mà còn rất nồng nàn, say đắm trong tình yêu đôi lứa.
-
Bài tham khảo số 4
Đề tài chiến tranh luôn là đề tài được nhiều tác giả khai thác. Mỗi tác phẩm đều đem đến những nét đẹp, những hình ảnh đặc biệt và riêng. Trong đó tác phẩm ” Bài thơ tình người lính biển” của Trần Đăng Khoa là một bài thơ hay nói về hình ảnh người lính biển. “Bài thơ chuyện tình người lính biển” được sáng tác năm 1981 và in trong tập thơ ” Bên cửa sổ máy bay” năm 1985 của tác giả Trần Đăng Khoa sau đó được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhác thành bài hát ” Chút thơ tình người lính biển.”
Những người lính lên đường bảo vệ Tổ Quốc luôn luôn sẵn sàng, không bao giờ quản nhọc nhằn. Nhưng trong họ lúc nào cũng luôn mang trong mình một tình yêu, tình cảm của tuổi trẻ. Tác giả Trần Đăng Khoa đã khéo léo đưa những hình ảnh thiên nhiên, con thuyền vào thơ của mình. Hình ảnh anh lính biển ra khơi với cánh buồm trắng no gió. Hay hình ảnh bọt sóng tung trắng xóa. “Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc/ Thăm thẳm nước trời, nhưng anh không cô độc”. Những hình ảnh đẹp để lại cho chúng ta bao nhiêu cảm xúc.
Cũng từ những hình ảnh đó, con thuyền ra khơi, buông neo cũng là lúc nào nhân vật ” em” lúc xuất hiện. “Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng” là lúc anh lính bắt đầu ra khơi. Anh lính luôn luôn nhớ đến nụ cười dịu êm, hiền lành của em đối lập với tiếng sóng vỗ ồn ào của biển cả. Dù có nặng lòng như nào thì trong lòng người lính vẫn luôn nhớ rằng đất nước chưa một phút nào yên. Trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ Tổ Quốc phải được đặt lên hàng đầu.
Tác giả sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh và đặc biệt là điệp từ, điệp ngữ. Mỗi khổ thơ đều kết thúc bằng câu ” Biển một bên và em một bên” để thấy được rằng tình yêu của người lính. Biển cũng chính là Tổ Quốc, đất nước được đặt ở một bên trong trái tim, bên còn lại là dành cho em.
Nhà thơ không chỉ nói hộ tâm cảm họ mà còn thu nhỏ cả biển trời bao la quanh họ đặt vào cái nơi ấm áp nhất của trái tim, bên cạnh hình ảnh dấu yêu của người yêu dấu để đi đâu, về đâu, bất cứ lúc nào những chàng trai trẻ xa nhà, xa quê ấy cũng không cảm thấy cô độc, bởi vì đã có niềm tin rằng: Biển một bên và em một bên Bài thơ thể hiển sự da diết tình yêu của người lính biển.
-
Bài tham khảo số 5
Thơ viết về đề tài chiến tranh, có những bài thật xúc động neo giữ bền chặt trong lòng bao thế hệ. Đó là những cuộc chia tay của người đi bảo vệ Tổ quốc và người yêu ở lại. Tiêu biểu như “Chia tay trong đêm Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi, “Cuộc chia ly màu đỏ” của Nguyễn Mỹ, “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn…Theo dòng cảm xúc đó, Trần Đăng Khoa có bài “Thơ tình người lính biển”.
Đây cũng là cuộc chia tay đầy lưu luyến, đầy lãng mạng và cũng rất đỗi tự hào của người lính hải quân đi làm nhiệm vụ giữ biên hải thiêng liêng của Tổ quốc. Tình cảm này đại diện cho tình yêu của hậu phương tạo thêm sức mạnh cho người lính biển ra khơi đến với biển đảo xa xôi để bảo vệ lãnh hải của Tổ quốc.
“Thơ tình của người lính biển” ra đời đã được nhiều thế hệ đón nhận. Và khi nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc đã nhanh chóng đi vào lòng người và trở thành bài ca đi cùng năm tháng.Bài thơ thật bình dị, thật gần gũi. Cái bình dị, gần gũi được gói gọn trong tình yêu Tổ quốc thiêng liêng và tình yêu lứa đôi thủy chung của người lính biển.
Câu thơ: “Biển một bên và em một bên…” được lặp lại như một điệp khúc trong năm khổ thơ của bài thơ. Nhịp điệu bài thơ khoan thai, dìu dặt tựa như những con sóng vỗ chao mạng thuyền. Nhưng được người lính lắng lại. Rồi tĩnh tâm để cân bằng hai đối trọng. Ta cùng thả hồn cùng tác giả, thì giai điệu câu thơ lại nghiêng về “Biển”. Thật vậy, nhạc sĩ Hoàng Hiệp đã nhận ra điều này.
Ông đã đưa giai điệu “Biển một bên” tha thiết vút cao và “Em một bên” dịu xuống rồi ngân dài. Nhưng giai điệu câu thơ không vì thế mà mất cân bằng. Luôn tạo ra đối trọng tương hỗ nhau để con thuyền băng băng ra biển lớn. Phải chăng, giai điệu ấy đã thôi thúc người lính biển bao giờ cũng đặt tình yêu Tổ quốc trên hết. Câu thơ thật lãng mạng cũng thật trí tuệ. Biển, đấy là Tổ quốc. Em, đấy là tình yêu lứa đôi. Đại diện cho cái rộng lớn và cái nhỏ bé. Cái chung và cái riêng cùng vun đắp cho khát vọng niềm tin của người lính biển.
Nhà thơ Tế Hanh trong bài tứ tuyệt “Sóng” cũng viết: “Biển một bên, em một bên”. Theo tôi, Tế Hanh chỉ dừng lại ở một vế nói lên tình yêu lứa đôi mặc dù vẫn có hình ảnh em và biển. Còn Trần Đăng Khoa thay dấu phẩy bằng liên từ “và” vừa tách bạch vừa liên thông giữa hai nhân vật biển và em đại diện cho hai tình yêu Tổ quốc và riêng tư luôn tương quan chia sẻ tạo ra sức mạnh và niềm tin của người lính trẻ. Tình cảm đó đã tạo thành câu thơ điệp lại năm lần trong năm khổ thơ dệt nên điểm nhấn cho bài thơ thật hay.Bài thơ được khởi nguyên bằng ba từ thật đơn giản:
“Anh ra khơi”.
Đằng sau ba từ ấy lại đong đầy tâm trạng của người lính biển. Mà mở đầu là hình ảnh cặp uyên ương chia tay nhau trên bến cảng. Một hình ảnh rất thực, khi đọc lên ai cũng hình dung ra được. Người lính biển rảo bước cùng người yêu của mình và ở đó anh nhận ra những vầng mây treo ngang trời như những cánh buồm trắng. Đấy là những hình ảnh thân quen của người lính biển.
Thật lạc quan khi người lính nhìn mây treo ngang trời như cánh buồm phiêu du, như thôi thúc anh tạm xa người yêu về cùng với biển đảo thân yêu. Giờ, trong khoảnh khắc, cái hạnh phúc thật dung dị, thật hiếm hoi, biển và em lại ngân lên. Đấy là Tổ quốc thiêng liêng, là tình em chung thủy đan cài…
Dấu chấm lửng đặt sau câu thơ: “Biển một bên và em một bên…” tạo cho người đọc sự đồng cảm, sẻ chia của sự cách xa trong tình yêu đôi lứa và những tâm sự thiết tha chưa kịp nói hết. Tất cả vì nghĩa lớn, vì Tổ quốc thân yêu.
Trong khoảnh khắc hạnh phúc lứa đôi, họ sánh bước bên nhau bên chân sóng, nơi bến cảng xôn xao, nhà thơ đã khắc họa tính cách của biển và em: “Biển ồn ào, em lại dịu êm”. Hai hình ảnh ngỡ như tương phản nhau. Không, trong cảnh huống này đấy là sự tương thuộc. Bởi cả hai đã lắng sâu trong trái tim người lính biển.Bên chân sóng rì rào, người con gái buông câu nói diết da tình ái, rồi nén nỗi chia xa đầy luyến lưu của người ở lại.
Rồi lặng lẽ mỉm cười, như lời động viên tha thiết của mình khi ngoài kia biển đang thôi thúc tinh thần và trách nhiệm làm trai. Để rồi người lính đi giữa cái chung và riêng trước phút chia tay mà hóa thân thành con tàu lắng sóng từ hai phía. Và trái tim lại ngân lên: “Biển một bên và em một bên…” Trong khoảnh khắc ấy, người lính biển chợt nhận ra:
“Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trời nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên…”
Hai từ “ngày mai” được viết liền nhau hai lần như sự khẳng định chắc chắn nơi anh sẽ đến để thực hiện nghĩa vụ cao quý của mình bằng tâm thế thật lạc quan. Và người đọc có thể hình dung, có thể định lượng được bằng cảm quan rằng, nơi anh đóng quân thật xa xôi, thật cách trở. Và không gian ấy được trải dài vô tận với thăm thẳm nước trời, với chùm sao xa lắc. Ở đó có thể là đảo chìm, đảo nổi, có thể anh đang cùng đồng đội trên tàu tuần tra…
Trước biển trời bao la, con người được xem như nhỏ bé, đơn độc là điều dễ hiểu. Nhưng “anh không cô độc” bởi trong anh có tình yêu Tổ quốc, có đồng đội, có hậu phương, có hình bóng em nơi quê nhà…Xưa nay khi nói về biển, người ta thường nghĩ tới những hiểm họa. Nào kẻ thù đang rình rập xâm lấn, nào thiên tai, nhân tai, nào những bất trắc khôn lường… Vì lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc, đã có không ít chàng trai Việt ra đi không trở về, thi thể họ vùi chôn nơi đáy biển nghìn thu. Và biết bao ngôi mộ gió khắc khoải ru hồn:
“Đất nước gian nan chưa bao giờ bình yên
Bão táp chưa ngưng trong những vành tang trắng”.
Nhưng không vì thế làm cho người thanh niên Việt Nam chùn bước. Theo tiếng gọi thiêng liêng của đất nước, họ sẵn sàng đi đến nơi đầu sóng ngọn gió để hoàn thành nghĩa vụ của mình một cách hiên ngang: “Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng”. Tác giả thật tài hoa khi dùng dấu chấm để ngắt nhịp câu thơ, tạo thành ba cụm câu, đã đem lại hiệu quả biểu cảm thật cao, tạo cho người đọc sự liên tưởng đến những vất vả, gian lao của người lính biển, nhưng cũng thật tự hào.
Hình ảnh “Anh đứng gác.”đã hóa thân thành cột mốc kiên định chủ quyền lãnh hải, là biểu tượng của lòng yêu nước và sự kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam.Từ thuở cha ông bằng thuyền nan dong buồm đi cắm mốc chủ quyền quốc gia trên biển. Các thế hệ của dân tộc ta luôn nối tiếp nhau vượt qua bao gian nan thử thách để giữ vững chủ quyền của dân tộc. Các anh luôn trung thành, luôn thủy chung với tình yêu đất nước, với tình yêu lứa đôi dẫu bao giả định, bao bất trắc có thể xảy ra. Đó là tình yêu vĩnh hằng thiêng liêng của người lính biển:
“Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ mình anh với cỏ
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên…”
“Thơ tình người lính biển” là bài thơ với những hình ảnh ấn tượng. Vừa sâu lắng, vừa mãnh liệt cùng với âm điệu lúc trầm lúc bổng, lúc nhanh lúc chậm. Tất cả cùng hòa điệu trong âm hưởng “Biển một bên và em một bên…” tạo ra sự lan tỏa sâu rộng về tình yêu Tổ quốc quyện hòa cùng tình yêu lứa đôi lay thức trách nhiệm công dân trong lòng bao thế hệ.
-
Bài tham khảo số 6
Đã yêu thơ thiếu nhi của Trần Đăng Khoa, năm 1982, tôi thật rất thích thú khi được tiếp cận bài “Thơ tình người lính biển” của anh.
Bài thơ mở đầu bằng một cuộc chia tay, có con tàu, có những cánh buồm trắng, có biển một bên và em một bên:
“Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên”
Cuộc đi dạo ngắn ngủi lộng gió biển và hẳn ít nhiều bổi hổi bồi hồi của hai con tim đang đầy ắp tiếng gọi lứa đôi đã được nhà thơ “kí họa” bằng những “nét” khá dung dị nhưng rất gợi:
“Biển ồn ào, em lại dịu êm
Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ”
Câu chi em vừa nói, phải chăng là câu tự tiếng lòng ? Chỉ một lần dạo trên bến cảng mà sự cồn cào của biển và sự dịu êm của em lan tỏa cả lòng anh.
Chính trong mối yêu thương, nên:
” Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên”
Đẹp quá! Người lính ở đâu trên hải đảo, cũng mang nặng trên vai: “Biển một bên và em một bên”. Nhận từ hai phía, đó chính là hạnh phúc, là ngày mai, là tương lai:
“Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tầu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trời nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên”
Dù ở vị trí nào, thời gian nào, anh vẫn “lắc lư” giữa biển và em, vì anh là lính thủy, đang bảo vệ lãnh hải Việt Nam.
Dù rằng:
“Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Bão táp chưa ngưng trong những vành khăn trắng
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên”
Lần nữa, điệp khúc đảo và em lặp lại vô cùng da diết, tình yêu bùng cháy đến vô cùng.
Anh – Biển – Em! Ba thực thể gắn liền nhau, tạo nên tâm tình người lính biển.
Những người lính đảo xa hẳn không ít lúc đã cảm nhận y hệt Trần Đăng Khoa sự liên kết ruột rà, gần như là thiêng liêng ấy. Nhà thơ không chỉ nói hộ tâm cảm họ mà còn thu nhỏ cả biển trời bao la quanh họ đặt vào cái nơi ấm áp nhất của trái tim, bên cạnh hình ảnh dấu yêu của người yêu dấu để đi đâu, về đâu, bất cứ lúc nào những chàng trai trẻ xa nhà, xa quê ấy cũng không cảm thấy cô độc, bởi vì đã có niềm tin rằng: Biển một bên và em một bên! Vâng, từ Biển viết hoa trong bài thơ khiến người viết những dòng này liên tưởng đến Mẹ và thốt nhớ đến ca từ rất đẹp trong bản nhạc nổi tiếng của nhạc sĩ Y Vân:
“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào…”.
Thơ tình người lính biển! Tựa như bài thơ hệt cách nói bộc trực của cánh lính trẻ, chẳng vòng vo, hay ẩn dụ văn hoa. Tình yêu dành cho đất nước, cho em của người lính biển tưởng chừng rất mộc mạc, nhưng đến “cao trào” lại là tình yêu “bốc lửa”.
“Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ mình anh với cỏ
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên”.
Bài thơ là viên ngọc sáng long lanh trong bảo tàng thơ, da diết tình yêu của người lính biển. Tôi tha thiết gởi bài bình thơ này về người lính biển thân thương trên khắp miền Tổ quốc Việt Nam.
-
Bài tham khảo số 7
Nhà thơ Trần Đăng Khoa nổi tiếng là “thần đồng thơ” trong làng thơ Việt Nam từ thời thơ ấu. Trần Đăng Khoa từng nhập ngũ làm một chiến sĩ hải quân, theo học ở Nga, khi về nước thì làm báo, biên tập viên. Với bài thơ Thơ tình người lính biển ông đã ghi dấu tên tuổi của mình trong lòng độc giả.
Bài thơ ra đời cách đây đã hơn 30 năm nhưng sức lan tỏa của nó chưa hề mất đi. Hình ảnh người lính nơi hải đảo đã được khắc họa rõ nét và gây ấn tượng mạnh trong lòng bao thế hệ bởi sự lãng mạn trong tình yêu lứa đôi kết hợp hài hòa với tình yêu Tổ quốc, giữa ham muốn cá nhân và trách nhiệm công dân lồng vào nhau làm một.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa tâm sự: “Không có hình ảnh nào lãng mạn như hình ảnh người lính hải quân trước sóng gió nhưng cũng không có hình ảnh dữ dội như sự hi sinh của người lính trên biển”. Bản thân ông từng là lính hải quân nên ông viết về họ cũng là viết cho chính mình, nếu không có một tình yêu sâu sắc với người lính biển thì sẽ không thể viết được những câu thơ được xem như “bản tình ca”của người lính hải quân đẹp đến như vậy.
Bài thơ là cuộc chia tay giữa anh lính hải quân với người yêu để xuống tàu làm nhiệm vụ bảo vệ biển trời thương yêu của Tổ quốc. Chia tay nhưng không hề bi lụy, bi thương mà vẫn ánh lên niềm tin, lạc quan và vẻ đẹp của tình yêu son sắt thủy chung. Bởi có lẽ người lính ở đây hiểu rõ hơn ai hết trong mối quan hệ giữa tình yêu cá nhân và tình yêu Tổ quốc chỉ có thể hài hòa và đẹp đẽ khi anh làm tròn được trách nhiệm của mình đối với quê hương. Bảo vệ Tổ quốc cũng chính là anh đang bảo vệ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
Thơ hay là thơ hàm súc, “ý tại ngôn ngoại”, bài thơ có năm khổ thơ nhưng có tới năm lần câu thơ “Biển một bên và em một bên” được lặp lại ở cuối mỗi khổ thơ. Đây là một dụng ý nghệ thuật của người viết. Biển là một phần máu thịt của Tổ quốc, là trách nhiệm anh phải giữ gìn. Em là tình yêu, là hạnh phúc của anh.
Với anh điều gì cũng quan trọng và thiêng liêng, nhưng anh cũng ý thức rất rõ tình yêu cá nhân chỉ thực sự đến khi chính anh làm tròn bổn phận của một người thanh niên đối với Tổ quốc. Tình yêu chỉ đẹp khi biết đặt nó giữa cuộc đời chung chứ không phải là nghĩ cho riêng mình. Chính vì thế cho nên dù ở bất cứ đâu em cũng kề sát ở bên anh.
“Phút chia tay anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên…”
Dấu chấm lửng đặt sau câu thơ như bao tâm tình còn chưa nói hết. Anh sánh bước bên em nơi bến cảng xôn xao và nhận ra “Biển ồn ào, em lại dịu êm”, cả hai hình ảnh biển và em là phần bổ khuyết cho nhau trong tình yêu người lính. Tình yêu Biển hay nói rộng ra là tình yêu Tổ quốc luôn sục sôi mãnh liệt trong trái tim anh. Còn tình yêu em lại đằm thắm ngọt ngào để nâng đỡ anh qua những ngày xa cách. Rồi:
“Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trời nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên…”
Ý thơ toát lên một điều giản dị mà xúc động, “anh không cô độc” bao giờ bởi trong anh luôn có tình yêu Tổ quốc, có hậu phương và có hình bóng của em. Và cho dù:
“Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Bão thổi chưa ngưng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên”.
Một bên biển, một bên em, một bên là Tổ quốc, một bên riêng, một bên là trách nhiệm, một bên là tình yêu. Và anh luôn xứng đáng với tình yêu của em khi vẫn hiên ngang nơi đầu sóng ngọn gió, “anh đứng gác” đã hóa thân thành cột mốc kiên định chủ quyền lãnh hải, là biểu tượng của lòng yêu nước và sự kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam.
Kết lại bài thơ vẫn là điệp khúc: “Biển một bên và em một bên…” như một lời khẳng định anh luôn trung thành, luôn chung thủy với tình yêu đất nước, tình yêu lứa đôi dẫu bao giả định, bao bất trắc có thể xảy ra. Đó là tình yêu vĩnh hằng thiêng liêng của người lính biển. Bài thơ có nhịp điệu dào dạt như những nhịp sóng vỗ bờ da diết, dìu dặt, khi được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc nó nhanh chóng được người nghe đón nhận và trở thành ca khúc vượt thời gian.