Bài tham khảo số 3
Ngay từ những ngày còn là một cậu bé, Trần Đăng Khoa đã dành nhiều tình yêu thương và sự cảm phục cho anh bộ đội. Chính vì vậy, khi trở thành một người lính, anh đã mang hết niềm tin, hoài bão để sống sao cho xứng đáng là anh bộ đội Cụ Hồ.
“Thơ tình người lính biển” là một thông điệp về lẽ sống của người lính biển mà Trần Đăng Khoa muốn gửi tặng cho tất cả đồng đội của mình, những người đang ngày đêm canh giữ bầu trời và vùng hải đảo của Tổ quốc.
Nhắc tới Trần Đăng Khoa, bạn đọc lại nhớ về một cậu bé – một nhà thơ “thần đồng” đã có rất nhiều bài thơ viết về các chú bộ đội. Lúc còn nhỏ, Trần Đăng Khoa đã rất yêu quý, ngưỡng mộ các chú bộ đội. Khoa đã từng reo lên khi phát hiện các chú bộ đội là những con người phi thường trong chiến đấu nhưng lại rất đỗi thân thương, bình dị trong cuộc sống hàng ngày. Trong bài thơ “Gửi theo các chú bộ đội”, Khoa đã viết:
“Cháu nghe chú đánh những đâu
Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi
Đến đây chỉ thấy chú cười
Chú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi.”
Chính từ lòng cảm phục đó, Trần Đăng Khoa đã nguyện đi theo con đường mà các chú bộ đội đã chọn. Và anh đã trở thành một người lính trên đảo Trường Sa. Khi đã trở thành một người lính, Trần Đăng Khoa lại say sưa viết về người lính, nhưng bây giờ là cái say sưa của người trong cuộc. Trần Đăng Khoa hiểu được cả những điều sâu kín, hiểu cả những phút xao lòng, bịn rịn, lưu luyến của người lính trước giờ phút chia tay:
“Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên.
Biển ồn ào, em lại dịu êm
Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ
Anh như con tàu, lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên.”
Biển ồn ào như vẫy gọi, còn em chỉ mỉm cười lặng lẽ. Nhưng chính nụ “cười lặng lẽ” của em lại là một sợi dây vô hình níu giữ anh, làm lòng anh xao xuyến, băn khoăn, lắng lòng mình về hai phía: “Biển” và “Em”. Em hay biển đều là những hình ảnh thân thương, diệu kì ngự trị trong trái tim anh. Được gần em hay gần biển đều là niềm khát khao cháy bỏng của người lính đảo.
Thực ra, khi yêu, người lính cũng như bao nhiêu người bình thường khác, ai chẳng muốn được gần người mình yêu. Chỉ có điều, khi đất nước chưa được bình yên, người lính đã biết nén niềm khao khát đó lại. Về điều này, nhà thơ Phùng Quán đã nói hộ cho các anh:
Khi người ta yêu nhau
Hôn nhau trong say đắm
Còn anh, anh yêu em
Anh phải đi ra trận
Yêu nhau ai không muốn
Gần nhau và hôn nhau
Nhưng anh, anh không muốn
Hôn em trong tủi sầu.
(Hôn)
Chính vì rất yêu, rất tôn trọng người mình yêu, người lính muốn mình là hình ảnh đẹp, là người sống có lí tưởng trong mắt người yêu. Người lính biển ở đây cũng thế:
“Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trôi nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên.”
Điệp từ “ngày mai” vừa thể hiện sự quyết tâm đến với hải đảo, lại vừa để lộ sự bịn rịn, lưu luyến của người lính khi phải chia tay với người mình yêu. Tạm biệt người yêu, anh đến với vùng hải đảo xa xôi của Tổ quốc. Nơi chỉ có nắng, gió, cát dài và mênh mông là biển cả, là “thăm thẳm nước trôi”. Tiếng vẫy gọi của biển cả đã mang bước chân anh đến với hải đảo xa xôi, và hành trang anh mang theo là hình bóng em được cất giữ trong tim. Để bên anh luôn có biển và em.
Trước không gian bao la của biển cả, hình ảnh người yêu lại hiện hữu rõ hơn, sưởi ấm tâm hồn anh và xoá tan nỗi cô đơn mà khoảng cách không gian đã tạo ra. Được gần nhau để yêu nhau, nghĩ về nhau, say đắm trong nhau để rồi khó quên nhau là điều dễ hiểu. Song, trong xa cách mà luôn nghĩ về nhau, giữ trọn hình ảnh trong nhau, đó mới thực sự là cung bậc say đắm của tình yêu.
Cái hay, cái chân thực của bài thơ là ở chỗ, tác giả không hề đặt ra cái ranh giới và sự lựa chọn giữa tình yêu biển cả, tình yêu Tổ quốc với tình yêu đôi lứa. Mà ở đây, cả hai thứ tình cảm cao đẹp này hoà quyện vào nhau, tiếp hợp cho nhau tạo nên một bản tình ca đẹp.
Tình yêu đôi lứa chính là ngọn lửa ấm áp xua tan nỗi cô đơn, trống trải trong người lính, giúp anh có thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn thử thách, vững chắc tay súng bảo vệ miền biên cương của tổ quốc. Và chính tình yêu Tổ quốc, tình yêu biển cả là thước đo cho sự cao đẹp của tình yêu đôi lứa, làm cho tình yêu đôi lứa có ý nghĩa hơn, giàu giá trị nhân văn hơn.
Trong cái say đắm riêng tư, con người ta còn biết lo nghĩ cho sự bình yên của Tổ quốc, đó mới là điều đáng trọng:
“Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên.
Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên.”
Bằng cách sử dụng các hình ảnh hết sức quen thuộc, có tính biểu trưng cao, Trần Đăng Khoa đã để hình ảnh “Biển” và “Em” luôn xuất hiện bên nhau, đi liền nhau trong suốt bài thơ; cùng với lối kết cấu đặc biệt, bài thơ gồm năm khổ, thì cả năm khổ thơ đều được kết thúc bằng hình ảnh “Biển một bên và em một bên”. Điều đó đã giúp cho bạn đọc luôn cảm nhận được rằng trong mọi nơi, mọi lúc, mọi khoảnh khắc thì “biển” và “em” đều ngự trị trong trái tim và tâm hồn người lính biển, đem lại niềm tự hào, niềm hạnh phúc cho anh.
Khổ thơ cuối một lần nữa khẳng định tình cảm, lẽ sống của người lính biển đã và sẽ mãi mãi dành cho “Biển” và “Em”:
“Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ còn anh với cỏ.
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên.”
Bài thơ là một bản tình ca đẹp về người lính biển. Người lính biển trong bài thơ không chỉ biết sống cho lí tưởng, cho tình yêu hải đảo, tình yêu Tổ quốc, mà còn rất nồng nàn, say đắm trong tình yêu đôi lứa.