Bài tham khảo số 6
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của của nền văn học Việt Nam. Một trong những sáng tác tiêu biểu là trường ca “Mặt đường khát vọng” - nổi bật là đoạn trích “Đất nước” thuộc chương V đã thể hiện những nét mới trong cảm nhận về đất nước.
Chủ đề đất nước là chủ đề xuyên suốt văn học, là chủ đề bao trùm thơ ca hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong bản đại hợp xướng của thơ ca viết về đất nước thì chương “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là khúc nhạc gây được ấn tượng riêng với giai điệu vừa hào hứng vừa sâu lắng vừa tràn đầy tình cảm vừa giàu chất trí tuệ. Bài thơ không những thể hiện lòng yêu nước mà còn là sự nhận thức sự định nghĩa về đất nước.
Nét đặc sắc trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là đất nước được cảm nhận trên nhiều bình diện, từ thời gian lịch sử đến không gian địa lý và bề dày văn hoá. Tất cả đều được dọi chiếu bởi tư tưởng chủ đạo là tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.
Trước hết đất nước được cảm nhận một cách toàn diện, trên nhiều phương diện trong sự gắn bó với mỗi cá nhân và cả cộng đồng với cuộc sống bình thường của mỗi con người. Đất nước xa xôi mà không xa vời. Đất nước gần gũi quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày.
Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không phải là cái gì trừu tượng mà là những gì gần gũi cụ thể thân thiết nhất. Đất nước có trong câu chuyện “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể” - đất nước có trong phong tục ăn trầu của bà, đất nước gần gũi thân thiết trong hạt gạo một nắng hai sương, đất nước có trong cái kèo cái cột, có dưới mỗi mái nhà ta ở. Đất nước đó là tình mẹ tình cha:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”
Cách cảm nhận trên của Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đất nước từ một khái niệm thiêng liêng nhưng cũng vô cùng bình dị gần gũi. Đất nước xa xôi vì khi ta lớn lên đất nước đã có rồi nhưng đất nước không hề xa vời vì đất nước có trong cuộc sống hàng ngày mà ai cũng có thể cảm nhận được.
Nhà thơ cảm nhận đất nước trong chiều rộng “không gian mênh mông” chiều dài “thời gian đằng đẵng” và chiều sâu văn hoá. Tất cả đều thật gần gũi thân thiết với mỗi con người.
Không gian địa lý của đất nước là biên giới lãnh thổ, là núi, sông, rừng, biển:
“Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc.
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Không gian đất nước còn là không gian của mỗi cá nhân trong cuộc sống hàng ngày, thật bình dị mà cũng thiêng liêng:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn tay trong nỗi nhớ thầm”
Đất nước ghi dấu những kỷ niệm riêng tư đẹp đẽ của mỗi con người. Ở những câu thơ trên tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật có thể coi là chơi chữ. Khi tách đất nước thành hai thành tố: “Đất” và “Nước”. Đất nước là từ ghép thì là khái niệm chỉ tổ quốc, một khái niệm trừu tượng. Khi tách “đất nước” thành hai từ đơn thì “đất” và “nước” chỉ cái khái niệm cụ thể. Biện pháp nghệ thuật chiết tự này có tác dụng đưa đất nước từ một khái niệm trừu tượng trở thành những gì gần gũi cụ thể thân thiết nhất. Mỗi con người gắn bó với Tổ quốc mình cũng thiêng liêng bình dị như gắn bó máu thịt không thể thiếu.
Nói về thời gian lịch sử, tác giả gợi lại những thần thoại những truyền thuyết về dân tộc, những thần thoại, những truyền thuyết này là rất quen thuộc với mỗi người Việt Nam. Như truyền thuyết Lạc Long Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” truyền thuyết vua Hùng với ngày giỗ Tổ, truyền thuyết Thánh Gióng với vó ngựa sắt đi qua “trăm ao đầm còn để lại”. Việc gợi lại những huyền tích những huyền sử này có tác dụng thể hiện thời gian “đằng đẵng” trong suốt chiều dài lịch sử đồng thời gợi lên niềm tự hào sâu xa ở mỗi người Việt Nam. Ai là người Việt Nam mà không nhớ về cội nguồn dân tộc.
Nói về nền văn hoá đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng định nghĩa thật giản dị. Văn hoá đó là phong tục tập quán quen thuộc đối với mỗi người dân. Trên thế giới cho đến hôm nay đã có trên bốn nghìn năm định nghĩa về văn hoá, bao nhà tư tưởng bao triết gia, bao nhà văn hoá cố gắng đi tìm một định nghĩa chính xác nhất về văn hoá. Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một định nghĩa giản dị mà sâu xa. Văn hoá ấy là phong tục tập quán thành thói quen thành nếp sống của mỗi con người. Văn hoá ấy là phong tục ăn trầu của bà, là phong tục búi tóc sau đầu của mẹ.
Từ những cảm nhận trên tác giả đi đến một mục đích quan trọng nhất: đất nước có trong mỗi người vì vậy mỗi cá nhân phải có trách nhiệm đối với đất nước.
Điều đặc sắc nhất là tác giả cảm nhận đất nước không chỉ như cái khách thể ở ngoài con người mà còn cái chủ thể có trong mỗi con người, đã trở thành máu thịt thành cuộc đời của mỗi con người:
“Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Chính vì xác định được trong mỗi con người có một phần đất nước nên nhà thơ xác định mồi cá nhân phải biết hy sinh cho đất nước cho dân tộc. Cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm rất gần với cách cảm nhận của Chế Lan Viên khi viết về đất nước:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi! Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”
Điểm đặc sắc nhất trong chương “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ đã cảm nhận đất nước trong sự đối chiếu bởi tư tưởng chủ đạo Đất Nước của Nhân dân.
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ chương Đất Nước đã từng được thể hiện trong phần đầu nhưng tập trung kết tinh là ở giai đoạn hai của chương V này.
Để viết về Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã sử dụng ngay những sáng tạo của nhân dân. Để thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân thì không gì tốt hơn là dùng ngay lời ăn tiếng nói của nhân dân. Chính vì vậy mà ở đoạn này tác giả đã sử dụng rộng rãi những chất liệu của văn hoá dân gian. Nhà thơ gọi lại những thần thoại truyền thuyết về Lạc Long Âu Cơ, Hùng Vương, về truyện cổ tích trầu cau, truyện cổ tích nàng Vọng Phu chờ chồng, truyền, thuyết Thánh Gióng. Tác giả cũng tạo dựng ý thơ từ những câu ca dao tục ngữ, câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” có nguồn gốc từ câu ca dao: “Tay nâng chén muối đĩa gừng, gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Còn câu thơ: “Dạy anh biết yêu em từ thủa trong nôi” có xuất xứ từ câu ca dao: “yêu em từ thủa trong nôi em nằm em khóc anh ngồi anh ru”. Việc sử dụng rộng rãi chất liệu dân gian để nói về đất nước không đơn thuần là thủ pháp nghệ thuật mà còn là sự thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.
Không gian địa lý của đất nước, thời gian lịch sử của dân tộc và truyền thống văn hoá vật chất, tinh thần đều được cảm nhận trong sự gắn bó với nhân dân do nhân dân sáng tạo.
Trở lại với không gian địa lý của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm có cách cảm nhận kỳ thú khi nói về danh lam thắng cảnh của đất nước. Những danh thắng đó đâu chỉ là tặng vật của tạo hoá ban cho mà còn là hình hài còn là số phận là ước vọng của bao cuộc đời bình dị chung đúc lên. Nếu không có bao người vợ chờ chồng qua những cuộc chiến tranh, những cuộc ly tán thì làm sao có sự tích nàng vọng phu trên cả 3 miền đất nước. Nếu không có công lao gian nan dựng nước của Vua Hùng thì làm sao có sự tích 99 con voi quay về đất tổ. Nếu không có chiến công của Thánh Gióng đuổi giặc Ân thì làm sao có sự tích về những ao đầm mà vó ngựa còn để lại. Và trên đất nước này bao đôi lứa yêu nhau bao cặp vợ chồng chung thuỷ đã lại hình thành hòn Trống Mái thuỷ chung và núi Bút non Nghiên hay là bao quyết tâm bao ước vọng của những người học trò nghèo đã hóa thân thành hình hài sông núi. Từ cách cảm nhận này Nguyễn Khoa Điềm đã viết những câu thơ trữ tình chính luận về đất nước:
“Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên”. Không chỉ ở nhân dân hoá thân vào đất nước mà nhân dân còn lưu lại trong những tên đất tên làng. Bao địa danh trên đất nước này mang những tên người nôm na bình bị, những “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Nhân dân đã hóa thân vào đất nước:
“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
Với Nguyễn Khoa Điềm thì lịch sử dân tộc cũng do nhân dân sáng tạo ra. Viết về đất nước tác giả không điểm lại những triều đại, những anh hùng nổi danh trong lịch sử mà ghi nhận công lao của những anh hùng vô danh. Những anh hùng vô danh ấy chính là nhân dân vô tận. Họ là những con người sống giản dị và bình tâm trong thầm lặng họ hi sinh cho đất nước. Họ là những con người không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ là người “làm ra Đất Nước”.
Trở lại với nền văn hoá dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chính nhân dân là người sáng tạo những giá trị vật chất và tinh thần.
Nhân dân truyền lại cho các thế hệ sau những giá trị vật chất từ hạt lúa đến ngọn lửa, truyền lại cho cháu con những giá trị tinh thần: Họ để lại cho thế hệ sau ngôn ngữ tiếng nói: “truyền lại giọng mình cho con tập nói”, họ để lại những tên đất tên làng: “gánh theo tên đất tên làng trong những chuyến di dân”.
Để khẳng định vai trò sáng tạo văn hoá của nhân dân Nguyễn Khoa Điềm trở về với kho tàng văn học dân gian với ca dao tục ngữ. Vì chính ở đây là nơi lưu giữ những sáng tạo tinh thần văn hoá của nhân dân là nơi truyền giữ tâm hồn dân tộc. Đi vào kho tàng văn học dân gian tác giả khẳng định nhân dân chính là người sáng tạo, phát huy hai truyền thống lớn là truyền thống yêu nước bất khuất và nhân ái nghĩa tình. Truyền thống nhân ái nghĩa tình với câu thơ: “Dạy anh biết yêu em từ thủa trong nôi”, “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” (có nguồn gốc từ câu ca dao: “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”). Truyền thống yêu nước bất khuất với câu thơ: “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy. Đi trả thù mà không sợ dài lâu” có xuất xứ từ câu ca dao (Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què).
Từ sự cảm nhận trên Nguyễn Khoa Điềm đi đến kết luận nhân dân là người sáng tạo ra đất nước trên tất cả các bình diện nhân dân là người xây dựng đất nước và cũng là người bảo vệ phát triển đất nước:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân”
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” đã từng xuất hiện trong truyền thống lịch sử. Ở “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đã khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Minh:
“Nhân dân bốn cõi một nhà
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới”
Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng một tượng đài bất tử về những người anh hùng vô danh, về những người nông dân nghĩa sĩ. Phan Bội Châu đã khẳng định sự gắn bó giữa nhân dân với đất nước:
“Dân là dân nước
Nước là nước dân”
Ở bài thơ “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi khẳng định cụ thể hơn đất nước gắn bó với người anh hùng áo vải:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
Những người dân bình thường giản dị, những người lao động chất phác thật thà. Khi cầm súng đứng lên bảo vệ Tổ quốc thì chính họ là những anh hùng…
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” từng manh nha (xuất hiện) trong truyền thống lịch sử được Nguyễn Khoa Điềm để nâng lên một tầm cao mới trong thời đại chống Mỹ. “Đất Nước của Nhân dân” được cảm nhận một cách toàn diện cả trong chiều dài thời gian, chiều rộng không gian và chiều sâu văn hoá. Nhà thơ không những khẳng định sự gắn bó với nhân dân mà còn khẳng định vai trò to lớn của nhân dân.
Trong kho tàng văn học dân gian đã có nhiều bài thơ hay viết về chủ đề Tổ quốc. Có khi lòng yêu nước thể hiện qua sự gắn bó với mảnh đất quê hương như “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm. Có khi lại là sự gắn bó quê hương cách mạng như Việt Bắc của Tố Hữu. Ở “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp về chủ đề Tổ quốc được chi phối bởi ý thức, niềm tự hào làm chủ đất nước. Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận đất nước về nhiều phương diện, chương “Đất nước” cũng là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp nhưng lại rọi chiếu bởi tư tưởng chủ đạo là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Đây là đóng góp riêng và là đóng góp không nhỏ của Nguyễn Khoa Điềm trong dòng thơ viết về đất nước.