Top 9 Bài văn phân tích nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất

Thai Ha 84 0 Báo lỗi

Đâu phải chỉ đến Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước và con người mới xuất hiện trong thơ ca Việt. Trước đó là đất nước đã đi vào mỗi con người qua từng lời ru, tiếng ... xem thêm...

  1. Đâu phải chỉ đến Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước và con người mới xuất hiện trong thơ ca Việt. Trước đó là đất nước đã đi vào mỗi con người qua từng lời ru, tiếng hát của khúc hát ru của bà của mẹ, qua những vẫn thơ của Nguyễn Đình Thi một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh, một đất nước rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm… Nhưng có lẽ phải đến Nguyễn Khoa Điềm mới hiện lên cái nhìn toàn vẹn, đi từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân.


    Khác với nhiều tác giả đàn anh trước hay cả một số cây bút cùng thế hệ bản thân họ khi viết về Đất nước luôn tự tạo ra một khoảng cách, xây một “tòa thành vĩ đại” để chiêm ngưỡng hình ảnh của Tổ quốc với thái độ trân trọng nên hay dùng những hình ảnh kì vĩ mĩ lệ mang tính biểu tượng để thể hiện cảm nhận của mình về đất nước. Nhưng đến với phần mở đầu đoạn thơ trích được Nguyễn Khoa Điềm người ta ngạc nhiên đi đến bất ngờ để nhận ra chưa bao giờ đất nước xuất hiện trước mắt lại gần gũi, bình dị chỉ trong một khoảng chạm tay đến thế. Mở đầu đoạn trích Đất nước là giọng thơ nhẹ nhàng , thủ thỉ như lời tâm tình đưa ta trở về cội nguồn đất nước.


    “Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi

    Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể

    Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.


    Đất nước đâu phải toà lâu đài kỳ vĩ tráng lệ, nguy nga không ai có thể chạm tới, nó cũng chẳng phải một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất là gì? Đó là khi còn tấm bé trong vòng tay của bà của mẹ những câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể đã đưa đất nước gắn với sự trưởng thành của một đứa trẻ hết sức tự nhiên, mật thiết. Trong văn hoá sống, sinh hoạt hàng ngày nơi miếng trầu của bà, hay cây tre trước ngõ… Một Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và gắn bó sắt son tình nghĩa anh em.


    Lịch sử lâu đời của Đất nước không phải cắt nghĩa bằng sự nối tiếp các triều đại “Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập” (Bình Ngô đại cáo) hay các sự kiện lịch sử mà bắt đầu từ những câu chuyện kể tuổi thơ, gợi nhớ đến các truyền thuyết xa xưa: sự tích trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng,… Nhưng để giữ lấy bình yên thì đất nước ấy cũng ” đứng lên” chiến đấu vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre chính là một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, thấm đẫm cội nguồn lịch sử dân tộc. Nền văn minh dân tộc cùng những phong tục tập quán lâu đời cũng được lưu giữ trong từng dòng “Đất Nước”.


    Một nét mới đặc sắc của tác giả chính là giọng thơ suy tư. Đoạn thơ mở đầu được xem như câu trả lời cho từng câu hỏi ẩn hiện xuyên suốt mạch thơ: Đất nước có từ bao giờ? Đất nước trưởng thành ra sao?… Cách nhìn nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm được xây dựng tương tự như hành trình cuộc đời của một con người.


    Tiếp nối cho mạch thơ chính luận trữ tình bằng câu hỏi: Đất nước là gì? Đó là sự cảm nhận về đất nước trong sự thống nhất hài hoà các phương diện địa lí và lịch sử không gian và thời gian. Bản thân Nguyễn Đình Thi xuất thân từ một thế hệ trí thức trẻ nói về hình tượng đất nước đâu phải dễ dàng. Có lẽ vì thế tác giả chia tách ý niệm đất nước thành 2 yếu tố đất và nước để cảm nhận và suy tư sâu hơn không dừng lại ở bình diện khái niệm mà ở một bình diện khác sâu hơn thể hiện một cái nhìn về hình tượng đất nước thiêng liêng bằng quan niệm mới của tuổi trẻ nên vừa mang tính cá thể vừa hết sức táo bạo:


    Đất là nơi anh đến trường

    Nước là nơi em tắm

    Đất Nước là nơi hai ta hò hẹn

    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…


    Đất nước - không gian kỳ diệu của tình yêu, của bao thế hệ đã đi qua hướng mãi suy tư của ta tới cội nguồn, tới : Những ai đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước để lại. Dặn dò con cháu chuyện mai sau…


    Chính không gian tình yêu ấy, theo dòng suy cảm tác giả mở rộng các chiều kích không gian, để hướng tới cái nhìn toàn vẹn và nhiều chiều về đất nước trong chiều dài của lịch sử và chiều rộng địa lí, chiều sâu văn hoá-phong tục dân tộc… Chính điều đó khiến mạch thơ hướng vào những suy ngẫm về trách nhiệm của thế hệ mình, một thế hệ tự ý thức về bổn phận của chính mình với đất nước:


    Em ơi, Đất nước là máu xương của mình

    Phải biết gắn bó và san sẻ

    Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

    Làm nên Đất Nước muôn đời…


    Đây là những lời tâm sự nhiều hơn là kêu gọi, giáo huấn. Vì thế, sức truyền cảm của ý thơ vẫn rất mạnh.

    Với cách dùng cụm từ “em ơi em”, thay vì lời kêu gọi, giáo huấn thì ngược lại cách xưng hô khiến ý thơ chuyển hóa linh hoạt, nhẹ nhàng thành một lời dặn dò, tâm sự. Ta phải hiểu được sự xuất sắc và cái tài Nguyễn Khoa Điềm chính là tứ thơ rất tâm lí, đánh động vào tim người đọc, khi con tim lên tiếng thì mọi điều chỉ là lúc ta cần làm theo lời trái tim mà thôi.


    Nét mới trong cách nhìn nhận đặc sắc nhất làm nên làm nên sự khác biệt của “Đất Nước” so với các tác phẩm cùng đề tài là quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”. Như cách mà nhà thơ Chế Lan Viên viết “Tổ quốc tôi bao giờ đẹp thế này chăng?” điểm nhìn Đất nước xuất phát qua bề dày lịch sử oai hùng.


    “Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

    Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn

    Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc

    Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng”


    Còn với Nguyễn Khoa Điềm tư tưởng cốt lõi Đất nước của nhân dân ngay cả ở phần sau việc triển khai trên hai hướng vừa khơi sâu vừa phát hiện nhiều ý nghĩa mới. Những phát hiện thú vị và độc đáo của tác giả về đất nước trên các phương diện : địa lí, văn hoá, phong tục…muôn vàn những vẻ đẹp, theo tác giả, đều là kết tinh của bao công sức và khát vọng của nhân dân, của những người bình thường, vô danh. Đây là lí do vì sao khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm tên các triều đại cùng bao nhân vật anh hùng trong sử sách mà nhấn mạnh đến lớp lớp những người vô danh:


    Có biết bao người con gái con trai

    Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

    Họ đã sống và chết

    Giản dị và bình tâm

    Không ai nhớ mặt đặt tên

    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước…


    Nguyễn Khoa Điềm không nhắc đến những tên tuổi vang dội hay những thắng lợi lịch sử tất cả mạch thơ xuyên suốt ấy là những con người, nhân dân bé nhỏ “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng lại là những người “làm ra Đất Nước”. Tất cả những vẻ đẹp của Đất nước được tác giả khai thác ở đoạn cuối trên mọi phương diện từ văn hóa, lịch sử, địa lí đó là những tinh hoa của dân tộc với bí bao công sức, khát vọng của nhân dân, từ nhân dân sinh sôi, phát triển. Ông nhấn mạnh lớp người vô danh “đã sống và chết/ Giản dị và bình tâm”. Cuối cùng, cốt lõi của cả đoạn trích được tác giả một lần nữa nếu rõ và khẳng định


    “Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân

    Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”


    Điểm nhìn của sự giàu suy tư, tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra luôn được tô đậm và trở thành cảm hứng chủ đạo. Tất cả được biểu đạt bằng một giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng, thiết tha. Nghệ thuật sử dụng nhuần nhị và sáng tạo các chất liệu văn hoá và văn học dân gian đem vào câu thơ hiện đại tăng thêm sức hấp dẫn của đoạn thơ.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

  2. Đất nước chính là nguồn cảm hứng vô tận của thi ca, của tâm hồn người nghệ. Từ xa xưa, ta bắt gặp hình ảnh đất nước trong những cánh cò trắng trên cánh đồng làng vào những chiều quê yên ả. Rồi ta bắt gặp đất nước “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”, trong thơ Chế Lan Viên, một đất nước “rũ bùn đứng dậy sáng lòa", đất nước của những mùa thu xưa và nay trong thơ Nguyễn Đình Thi. Và khi đọc Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm ta lại gặp hình ảnh “đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại” ở toàn bộ chương Đất nước của bản trường ca này.


    Hình ảnh “đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại” được tác giả thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình, chính luận. Đậm đà cảm xúc mà cũng giàu chất triết lý sâu xa, vừa đem đến cho người đọc những cảm nhận mới mẻ về đất nước vừa giúp mỗi người yêu hơn , thương hơn đất nước mình.


    Theo Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không là của riêng ai mà là của toàn nhân dân. Hàng triệu người vô danh từ thế hệ này sang thế hệ khác đã đổ mồ hôi và xương máu để bảo vệ và xây dựng đất nước.


    Có biết bao người con gái, con trai,

    Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

    Họ đã sống và chết.Giản dị và bình tâm,

    Không ai nhớ mặt đặt tên,

    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.


    Trong suốt bốn nghìn năm dựng nước, nhân dần ta đã chiến đấu, lao động tạo nên bộ mặt lãnh thổ, nền văn hoá dân tộc, những mối quan hệ gia đình, làng xóm, tổ tiên, quan hệ với thiên nhiên, lịch sử...


    Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi,

    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

    Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy,

    Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.


    Đất Nước không phải là những gì xa xôi trừu tượng mà thật cụ thể, gắn bó thân thiết với tình cảm và sinh hoạt hằng ngày của chúng ta:


    Đất là nơi anh đến trường,

    Nước là nơi em tắm,

    Đất Nước là nơi ta hò hẹn,

    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm


    Và hiện hữu ngay trong bản thân mỗi người chúng ta:

    Trong anh và em hôm nay.

    Đều có một phần Đất Nước,

    Khi hai đứa cầm tay,

    Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.


    Quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm có điểm khác với quan niệm phong kiến ngày xưa - đất nước là của nhà vua.


    Nam quốc Sơn hà nam đế cư.

    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

    (Lí Thường Kiệt)


    Quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm cũng có điểm khác với quan niệm của nhà yêu nước ở đầu thế kỉ XX - đất nước là của những bậc anh hùng làm nên lịch sử:


    Nợ thuở trước đánh Tàu mấy lớp,

    Cõi trời Nam cơ nghiệp mở mang

    Sông Đằng lớp sóng Trần Vương,

    Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê.

    Quang Trung để từ khi độc lập,

    Khí anh hùng đầy lấp giang Sơn.

    (Phan Bội Châu)


    Về hình thức biểu hiện đất nước, bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng có mới mẻ, sáng tạo. Thơ ca cổ điển thường dùng tiếng cuộc kêu tượng trưng cho lòng nhớ thương nước nhà:

    Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

    (Bà Huyện Thanh Quan)


    Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,

    Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.

    (Nguyễn Khuyến)


    Chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây vào những năm 20 của thế kỉ này, Tản Đà đã dùng hình ảnh bức dư đồ để tượng trưng cho đất nước:


    Nọ bức dư đồ thư đứng cui,

    Sông sông, núi núi khéo bia cười


    Khi Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu viết Ngọn quốc kì ca ngợi đất nước:

    Việt Nam! Việt Nam!

    Cờ đỏ sao vàng!

    Những ngực nén hít thở "Ngày độc lập"!


    Riêng Nguyễn Khoa Điềm sử dụng những hình ảnh trong ca dao, tục ngữ truyền thuyết muôn màu, muôn vẻ, trải dài trong không gian, xuyên suốt cả thời gian, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những liên tưởng kì thú để tượng trưng cho đất nước. Trước hết, đất nước đã có từ lâu đời, qua Sự tích trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng.


    Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn,

    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.


    Qua những mỹ tục thể hiện lối sống giàu tình nặng nghĩa:

    Tóc mẹ thì bới sau đầu,

    Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.


    Qua đời sống lao động thật vất vả để lo cái ở, để lo cái ăn:


    Cái kèo, cái cột thành tên,

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.


    Đất nước được coi là phần hay nhất của trường ca Mặt đường khát vọng . Nó tạo nên những tình cảm tha thiết sâu lắng, những ngân rung trong lòng người đọc. Bài thơ còn tạo nên một tượng đài về Tổ quốc Việt Nam bằng thơ, tượng đài ấy vĩnh hằng qua thời gian, năm tháng và trong lòng mỗi người dân Việt Nam yêu đất nước mình.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm.


    Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã quy tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mỹ cứu nước.


    Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước:


    “Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi

    Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể

    Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”


    Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ… gợi lên một đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.


    Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Một chân lí tự nhiên: Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên sẽ mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia. Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào:


    “Tay bưng dĩa muối chén gừng

    Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”


    Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa:


    “Cái kèo cái cột thành tên

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

    Đất Nước có từ ngày đó”


    Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân”.

    Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình:


    “Đất là nơi anh đến trường

    Nước là nơi em tắm

    Đất Nước là nơi ta hò hẹn

    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”


    Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lý mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là “đất” và “nước” với những liên tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lối chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.


    “Đất” mở ra cho anh một chân trời kiến thức, “nước” gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, đất nước còn là người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu. “Đất” và “nước” tách rời khi “anh” và “em” đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi “anh” và “em” kết lại thành “ta”. Chiếc khăn - biểu tượng của nỗi nhớ thương - đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: “Khăn thương nhớ ai/Khăn rơi xuống đất …” - một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.


    Đất nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “con cá ngư ông móng nước biển khơi” mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn.


    Đất nước trường tồn trong không gian và thời gian: “Thời gian đằng đẵng/Không gian mênh mông” để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.


    Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở:


    “Những ai đã khuất

    Những ai bây giờ

    Yêu nhau và sinh con đẻ cái

    Gánh vác phần người đi trước để lại

    Dặn dò con cháu chuyện mai sau”


    Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện: trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lý, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa - phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc.


    Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ quy chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.


    Và cụ thể hơn nữa, gần gũi hơn nữa, Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta:


    “Trong anh và em hôm nay

    Đều có một phần đất nước”


    Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời.


    Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước.


    Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên… không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên tuổi: “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu”, “Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”, “Người học trò thắng cảnh”... Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ quy nạp thành một khái quát sâu sắc:


    “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

    Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”


    Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh:


    “Họ đã sống và chết

    Giản dị và bình tâm

    Không ai nhớ mặt đặt tên

    Nhưng họ đã làm ra Đất nước”


    Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao. Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo:


    “Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

    Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”


    Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc: Thật đắm say trong tình yêu, biết quý trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.


    Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui…


    Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  4. Có một lần trong buổi gặp trực tiếp với dân chúng Nga, tổng thống Nga Vladimir Vladimirovich Putin đã đọc những vần thơ hết sức cảm động và thiết tha của nhà thơ làng quê Sergei Aleksandrovich Yesenin để diễn tả lòng yêu nước sâu sắc của mình:


    “Ôi nếu như thiên thần lên tiếng gọi

    Bỏ nước Nga lên sống ở thiên đường!

    Tôi sẽ đáp: Thiên đường xin để đấy

    Cho tôi xin ở cùng Tổ quốc yêu thương”


    Tình cảm đối với đất nước, đối với nhân dân cũng là một trong những nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca Việt Nam, đặc biệt là trong các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Cũng với những tình cảm dành cho tổ quốc, con người Việt Nam, nhưng ta lại nhận thấy rằng trong thơ ông nổi lên những nét mới lạ và cảm nhận riêng rất độc đáo. Trong Trường ca “Mặt đường khát vọng” với đoạn thơ “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa chúng ta đến với những khám phá cực kỳ mới mẻ về đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại đồng thời bộc lộ tình cảm thắm thiết sâu nặng của mình đối với đất nước, nhân dân.


    Đất nước là một trong những nguồn cảm hứng chung của nhiều nhà thơ nhà văn, ta đã từng biết đến một đất nước thon thả giọt đàn bầu trong sáng tác của nhà thơ Tạ Hữu Yên, một đất nước hình tia chớp trong thơ Trần Mạnh Hảo, hoặc cũng có thể là một đất nước nhìn từ xa, nhìn từ biển của Nguyễn Việt Chiến... Còn với riêng Nguyễn Khoa Điềm, ông lại có những cảm nhận mới khi tập trung vào quá trình hình thành, lớn lên và tồn tại của đất nước. Có thể nói Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ đầu tiên và cũng là nhà thơ duy nhất trầm tư suy nghĩ và nói về thời điểm ra đời của đất nước, với những dòng thơ mở đầu đầy suy tư:


    “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

    Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể

    Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”


    Từ "ta" ở đây vừa là lời tự xưng của nhà thơ, vừa có ý nghĩa đại diện cho cả một thế hệ trong đó có cả "anh" và "em" cho nên trong quan niệm của tác giả đất nước có trước khi mỗi con người, mỗi thế hệ lớn lên, đó là một đất nước có từ ngàn xưa từ rất lâu đời. Cũng trong mạch cảm hứng ấy tác giả còn nhận ra rằng đất nước bắt đầu từ "miếng trầu bây giờ bà ăn", khéo léo gợi lại một trong những tập tục nổi tiếng của người Việt xưa ấy là tục ăn trầu nhuộm răng, thờ cúng, lễ lộc bằng trầu cau. Cũng có nghĩa là một đất nước được hình thành từ trước khi dân ta biết đến tục ăn trầu, khi dân ta biết yêu nhau, gắn bó cùng nhau, miếng trầu bà ăn cũng có đến hàng nghìn năm tuổi, cùng tuổi với đất nước.


    Cũng trong mạch cảm xúc về thời điểm ra đời của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định:


    “Tóc mẹ thì bới sau đầu

    Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

    Cái kèo, cái cột thành tên

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

    Đất Nước có từ ngày đó…”


    Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khéo léo gợi lại những tập tục đặc trưng của dân tộc ta, phụ nữ Việt Nam xưa vẫn ưa thích kiểu búi tóc thành búi thấp sau gáy rồi dùng trâm, dùng lược cố định. Lời thơ cũng làm sống lại cái tình cảm vợ chồng thủy chung son sắt của cha, của mẹ cũng như của biết bao đôi lứa trên đất nước này, đó là tình cảm sâu sắc biểu trưng bằng hình ảnh "gừng cay muối mặn" xuất phát trong ca dao Việt Nam xưa. Rồi "Cái kèo cái cột thành tên" lại là một tập tục độc đáo tâm linh của người Việt mà ở đó, họ đặt cho con cái mình những cái tên sao cho thật xấu, thật tầm thường, dung dị mà gần gũi, phòng tránh cho khỏi bị ma quỷ, thần thánh để ý mà bắt mất con, từ đó ta cũng thấy được tình cảm thiêng liêng sâu sắc của cha mẹ dành cho những đứa con bé bỏng, những con người sẽ xây dựng đất nước mai sau. Câu thơ: "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng" đã thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc của tác giả về đời sống vật chất của người Việt, gợi nhắc về nền văn minh lúa nước đã gắn bó với con người từ thuở các vua Hùng dựng nước, để làm ra hạt gạo nhỏ bé con người đã phải bỏ ra biết bao công sức, mới được thứ gạo sạch thơm trắng ngần. Và cũng tương tự như miếng trầu, hạt thóc, hạt lúa cũng có cùng tuổi với đất nước, sánh vai đi cùng với đất nước, làm nên đất nước và con người Việt Nam đã hàng ngàn năm nay. Đất nước có từ khi nhân dân ta biết đến tục ăn trầu, phụ nữ ta biết búi tóc sau đầu, con người biết yêu thương nhau thủy chung tình nghĩa, biết đặt tên con là "cái kèo", "cái cột", rồi biết làm ra hạt gạo để nuôi sống chính mình. Tất cả những định nghĩa trên đều cho thấy một điều rõ ràng Nguyễn Khoa Điềm đang cố gắng xóa mờ đi cái khái niệm thời gian lịch sử cụ thể, từ đó gợi lên một hình tượng đất nước có từ rất xa xưa, từ rất lâu đời.


    Không chỉ dừng lại ở những phát hiện về thời gian ra đời của đất nước mà Nguyễn Khoa Điềm còn có những cảm nhận tinh tế về phạm vi tồn tại của đất nước, điều này được nhà thơ khẳng định một cách trực tiếp trong dòng thơ thứ hai của tác phẩm "Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể". Lời thơ đã gợi ra một không khí đất nước trong những câu chuyện cổ đặc biệt là truyện cổ tích, những câu chuyện vốn rất thân quen và gần gũi đối với mỗi con người ngay từ thuở ấu thơ, từ trong những lời kể thiết tha, ngọt ngào của mẹ. Có thể thấy rằng cách cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm khác hẳn cách cảm nhận về đất nước của Lý Thường Kiệt trong Nam Quốc Sơn Hà là đất nước tồn tại trong sách trời, rất thiêng liêng rất cao cả, rất thần bí. Với ông đất nước tồn tại và gắn bó mật thiết với con người từ trong những gì gần gũi thân thuộc nhất, câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn, hạt gạo ta trồng, từ trong những cái tên của con người, đất nước không phải là khái niệm mơ hồ, bí ẩn mà nó mang một vẻ gần gũi, thiết tha hòa mình với con người, với cuộc sống của nhân dân ta từ bao đời nay. Điều đó càng được tác giả khẳng định trong những câu thơ sau:


    “Trong anh và em hôm nay

    Đều có một phần Đất Nước

    Khi hai đứa cầm tay

    Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm

    Khi chúng ta cầm tay mọi người

    Đất nước vẹn tròn, to lớn”


    Đất nước có trong anh, trong em, trong mỗi người nên khi chúng ta yêu thương nhau đất nước sẽ trở nên hài hòa nồng thắm, còn khi chúng ta đồng lòng chung sức thì đất nước sẽ vẹn toàn to lớn. Trong cảm nhận của tác giả đất nước không chỉ là bầu không gian sống của mỗi con người mà đất nước còn tồn tại hiện diện ngay trong bản thân của mỗi cá nhân "Đất Nước là máu xương của mình".


    Nguyễn Khoa Điềm nói về quá trình lớn lên của đất nước chỉ trong một câu thơ rất sâu sắc "Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc". Đối với tác giả chính quá trình đấu tranh bền bỉ, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm đã giúp cho đất nước trưởng thành vững chãi hơn. Câu thơ gợi nhớ lại truyền thuyết Thánh Gióng cổ xưa, người anh hùng nhổ tre làm vũ khí diệt giặc, và trong những lần kháng chiến chống giặc ngoại xâm sau này, tre xanh luôn có những vai trò nhất định trong kháng chiến, trở thành biểu tượng cho một dân tộc, một đất nước kiêu hùng, mạnh mẽ quật cường như loài tre xanh, với sức sống tiềm tàng mãnh liệt.


    Bên cạnh việc khám phá quá trình ra đời, hình thành và tồn tại của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm còn có những định nghĩa sâu sắc, độc đáo về đất nước. Thứ nhất, đất nước là sự thống nhất của ba phương diện chiều rộng không gian địa lý, bề dày thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa:


    “Đất là nơi anh đến trường

    Nước là nơi em tắm

    Đất Nước là nơi ta hò hẹn

    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

    Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"

    Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"

    Thời gian đằng đẵng

    Không gian mênh mông

    Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

    Đất là nơi Chim về

    Nước là nơi Rồng ở

    Lạc Long Quân và Âu Cơ”


    Đất nước với chiều rộng không gian địa lý kéo dài từ không gian sinh hoạt cá nhân "nơi anh đến trường", "nơi em tắm", đến những không gian sinh hoạt cộng đồng rộng lớn như "nơi dân mình đoàn tụ", rồi từ không gian của thực tại đến không gian của truyền thuyết thần thoại như "nơi Chim về", "nơi Rồng ở"... Chính những không gian này đã gợi lên tầm vóc không gian địa lý của đất nước. Gắn với những không gian ấy, cùng những ca dao, truyền thuyết, thần thoại về Lạc Long Quân và Âu Cơ thì tác giả đã khéo léo gợi ra thời gian lịch sử của đất nước, kéo dài suốt từ thời Lạc Long Quân - Âu Cơ dựng nước cho đến tận "anh với em hôm nay" cho đến tận "mai này con ta lớn lên". Đồng thời những chất liệu trên cũng gợi ra chiều sâu văn hóa của dân tộc ngay từ thuở đất nước sơ khai. Khái niệm thứ hai, đất nước chính là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, trong cảm nhận của nhà thơ đất nước là nơi anh đến trường, là bến nước, bờ sông là nơi anh và em cũng như bao đôi lứa cùng hò hẹn yêu nhau, nhưng đất nước không chỉ là những nơi riêng tư như vậy mà nó còn là nơi "dân mình đoàn tụ" là nơi sinh hoạt đời sống cộng đồng:


    “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

    Phải biết gắn bó san sẻ

    Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

    Làm nên Đất Nước muôn đời…”


    Từ những định nghĩa như vậy Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến định nghĩa trung tâm về đất nước đó là đất nước là dòng máu chảy trong huyết quản, là xương thịt cơ thể, là sự sống của con người vừa quý giá vừa thiêng liêng, vừa gần gũi thân thiết. Lời thơ như lời tâm sự, giảng giải đầy tâm huyết ấy đã lay động, thức tỉnh ý thức trách nhiệm của mỗi con người đối với đất nước. Có thể nói rằng ngay từ trong phần một của đoạn thơ đất nước tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” đã hiện lên một cách khá rõ rệt là tiền đề cho các phần tiếp theo.


    “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

    Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

    Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

    Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

    Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.

    Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

    Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

    Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

    Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

    Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”


    Trong phần thứ hai Nguyễn Khoa Điềm tập trung làm nổi bật tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, bằng những dẫn chứng nhân dân chính là người làm ra đất nước, vậy họ là những ai? Họ là những con người vô danh không tên không tuổi, được hiện lên một cách khái quát qua hình ảnh "những người vợ nhớ chồng", "cặp vợ chồng yêu nhau", "người học trò nghèo" và "những người dân nào". Bên cạnh những hình ảnh con người vô danh ta còn thấy hiện lên rất nhiều con vật, ngựa của Thánh Gióng, 99 con voi của vua Hùng, con cóc, con gà quê hương, con rồng lặng im… Ta có thể thấy rằng bên cạnh những con vật trong thần thoại, truyền thuyết còn có những con vật gần gũi thân thiết cũng góp phần cấu thành nên đất nước, điều đó khẳng định rằng dù cao quý hay thân thuộc, tầm thường thì chỉ cần biết hóa thân mình vào đất nước thì đều đáng được trân trọng, yêu quý. Chính những ý thơ này đã đem đến sức lay động mạnh mẽ, làm thức dậy ý thức trách nhiệm vì đất nước của mỗi con người. Những địa danh được nhắc đến trong bài "núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên, Hạ Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm" trong dòng suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm nó không đơn thuần là những danh lam thắng cảnh thuần túy mà nó đã được cảm nhận như là sự hóa thân của cuộc đời, số phận, nỗi niềm của cha ông qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, ghi đậm dấu ấn tâm hồn, lối sống, cách suy nghĩ, phong tục tập quán cho đến quan niệm và tư tưởng sâu sắc của nhân dân:


    “Em ơi em

    Hãy nhìn rất xa

    Vào bốn ngàn năm Đất Nước

    Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

    Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

    Cần cù làm lụng

    Khi có giặc người con trai ra trận

    Người con gái trở về nuôi cái cùng con

    Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”


    Lời thơ rất ngọt ngào, tha thiết của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định tiếp một điều rằng chính nhân dân lao động đã dựng xây và chiến đấu hết mình để bảo vệ đất nước. Đồng thời hai câu thơ "Nhiều người đã trở thành anh hùng/Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ" chính là lời ngợi ca nhân dân, ngợi ca những con người không tên không tuổi, những con người đã làm nên đất nước.


    Không chỉ dựng xây đất nước nhân dân còn chính là người đã tạo ra truyền thống văn hóa lịch sử của đất nước:

    “Những em biết không

    Có biết bao người con gái, con trai

    Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

    Họ đã sống và chết

    Giản dị và bình tâm

    Không ai nhớ mặt đặt tên

    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”


    "Bốn nghìn lớp người" chính là bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, biết bao nhiêu thế hệ nhân dân đã nối tiếp nhau để làm nên lịch sử đất nước. Đối với tác giả lịch sử đất nước không phải là sự thay đổi triều đại hay nối tiếp ngôi báu của các ông hoàng bà chúa mà lại là sự nối tiếp của các thế hệ nhân dân, chính những con người đã làm nên một đất nước vẹn toàn, vì vậy đất nước là của nhân dân chứ không ai khác. Họ là những con người đông đảo không tên không tuổi, không ai nhớ mặt đặt tên, sống giản dị, chết bình tâm, không do dự đắn đo, sẵn sàng hy sinh thân mình cho đất nước:


    “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

    Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

    Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

    Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

    Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái

    Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

    Có nội thù thì vùng lên đánh bại

    Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

    Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”


    Cuối cùng nhân dân chính là người đã sáng tạo ra dòng chảy văn hóa cho cả một dân tộc, cho bốn năm văn hiến rực rỡ, kiêu hùng, rất nhiều giá trị vật chất và tinh thần đã được nhân dân giữ lại và truyền đạt cho đời sau, để con cháu phát huy và kế thừa những truyền thống tốt đẹp của cha ông xây dựng bao đời.


    Kết lại, những điểm mới trong sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm đều xuất phát từ tư tưởng tiến bộ trong thời kỳ Cách mạng ấy là tư tưởng đất nước của dân, do dân và vì dân là tư tưởng chủ đạo dẫn mạch cảm xúc đi xuyên suốt bài bằng những khám phá mới trên nhiều bình diện văn hóa, lịch sử, địa lý, nguồn gốc ra đời, quá trình hình thành phát triển đất nước. Đặc biệt với giọng thơ thủ thỉ tâm sự, ngọt ngào bộc lộ những cảm xúc chân thành, thiết tha phối hợp với cách sử dụng chất liệu văn hóa dân gian nhuần nhuyễn, sáng tạo đã làm cho bài thơ trở thành tác phẩm viết về đề tài đất nước tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  5. Thơ ca giai đoạn 1945 - 1975 có nhiều sáng tác đặc sắc về đề tài đất nước, ví dụ: Nguyễn Đình Thi (Đất nước), Xuân Diệu (Mũi Cà Mau), Chế Lan Viên (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?), Trần Vàng Sao (Bài thơ của một người yêu nước mình)... Các sáng tác kể trên đều có sức sống lâu bền qua nhiều thế hệ những người yêu thơ bởi những đóng góp riêng độc đáo. Đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm cũng có một đóng góp riêng đặc sắc. Đó là ở cái nhìn mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử - địa lý - văn hoá...


    Khác với nhiều tác giả đi trước và một số cây bút cùng thế hệ, thường tự tạo ra một khoảng cách để chiêm ngưỡng hình ảnh của Tổ quốc, với thái độ trân trọng đặc biệt, nên hay dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, mang tính biểu tượng để thể hiện cảm nhận của mình về đất nước, phần mở đầu đoạn thơ trích được Nguyễn Khoa Điềm diễn đạt tự nhiên và bình dị:


    “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

    Đất nước ở trong cái "ngày xửa ngày xưa" mẹ thường hay kể.

    Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

    Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”


    Đất nước thực ra rất thân thuộc, gần gũi. Có thể cảm nhận được về đất nước qua những gì hết sức đơn sơ: câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu của bà, ngôi nhà mình ở, hạt gạo ta ăn...


    Giọng thơ suy tư thường vẫn hay đặt ra các câu hỏi và tự trả lời. Đoạn thơ mở đầu cũng có thể được coi là những câu trả lời cho câu hỏi: Đất nước có từ bao giờ? Và lịch sử lâu đời của đất nước ta được cắt nghĩa không bằng sự nối tiếp của các triều đại hay các sự kiện lịch sử mà bằng những câu thơ gợi nhớ đến các truyền thuyết xa xưa: truyện Trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng, nền văn minh sông Hồng cùng những phong tục, tập quán riêng biệt có từ lâu đời... đó chính là đất nước được cảm nhận ở chiều sâu của văn hoá và lịch sử.


    Tiếp theo, trong mạch thơ chính luận - trữ tình, là câu trả lời cho câu hỏi: Đất nước là gì? Đó là sự cảm nhận về đất nước trong sự thống nhất, hài hoà các phương diện địa lí và lịch sử, không gian và thời gian. Xuất thân từ một thế hệ trí thức trẻ mà những tri thức văn hoá được trang bị còn tươi rói, tác giả chia tách ý niệm đất nước thành hai yếu tố đất và nước để cảm nhận và suy tư sâu hơn không dừng lại ở bình diện khái niệm mà ở một bình diện khác sâu hơn, thể hiện một cái nhìn về hình tượng đất nước thiêng liêng bằng quan niệm mới của tuổi trẻ nên vừa mang tính cá thể vừa hết sức táo bạo:


    “Đất là nơi anh đến trường

    Nước là nơi em tắm

    Đất Nước là nơi hai ta hò hẹn

    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…”


    Trong mắt của người trẻ tuổi, đất nước này là cái cõi đầy thơ mộng với bao kỷ niệm dịu ngọt của tình yêu. Đất nước, cái không gian tuyệt diệu của tình yêu không chỉ của thế hệ hiện tại mà còn là của bao thế hệ đã đi qua hướng mãi suy tư của ta tới cội nguồn, tới: “Những ai đã khuất/Những ai bây giờ/Yêu nhau và sinh con đẻ cái/Gánh vác phần người đi trước để lại/Dặn dò con cháu chuyện mai sau…” Cái không gian của tình yêu ấy, theo dòng suy cảm của tác giả mà mở rộng các chiều kích, rồi hướng tới một cái nhìn toàn vẹn và nhiều chiều về đất nước trong chiều dài của lịch sử và chiều rộng của địa lý, chiều sâu của văn hoá và phong tục… Từ đó, mạch thơ hướng vào những suy ngẫm về trách nhiệm của thế hệ mình, một thế hệ tự ý thức về bổn phận của chính mình với đất nước:


    “Em ơi, Đất nước là máu xương của mình

    Phải biết gắn bó và san sẻ

    Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

    Làm nên Đất Nước muôn đời…”


    Đây là những lời tâm sự nhiều hơn là kêu gọi, giáo huấn. Vì thế, sức truyền cảm của ý thơ vẫn rất mạnh.


    Ở phần sau của đoạn trích, tác giả nhấn mạnh quan niệm “Đất Nước của nhân dân”. Thực ra, đây cũng là tư tưởng cốt lõi của cả đoạn trích, nhưng ở phần sau thì được triển khai trên hai hướng vừa khơi sâu vừa phát hiện nhiều ý nghĩa mới. Những phát hiện thú vị và độc đáo của tác giả về đất nước trên các phương diện: địa lý, văn hoá, phong tục… muôn vàn những vẻ đẹp, theo tác giả, đều là kết tinh của bao công sức và khát vọng của nhân dân, của những người bình thường, vô danh. Đây là lí do vì sao khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm tên các triều đại cùng bao nhân vật anh hùng trong sử sách mà nhấn mạnh đến lớp lớp những người vô danh:


    “Có biết bao người con gái con trai

    Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

    Họ đã sống và chết

    Giản dị và bình tâm

    Không ai nhớ mặt đặt tên

    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước…”


    Tóm lại, đoạn thơ là cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử - địa lý - văn hoá...


    Với một cái nhìn giàu suy tư, tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra được tô đậm là cảm hứng chủ đạo. Tất cả được biểu đạt bằng một giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng, thiết tha. Nghệ thuật sử dụng nhuần nhị và sáng tạo các chất liệu văn hoá và văn học dân gian đem vào câu thơ hiện đại tăng thêm sức hấp dẫn của đoạn thơ.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  6. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của của nền văn học Việt Nam. Một trong những sáng tác tiêu biểu là trường ca “Mặt đường khát vọng” - nổi bật là đoạn trích “Đất nước” thuộc chương V đã thể hiện những nét mới trong cảm nhận về đất nước.


    Chủ đề đất nước là chủ đề xuyên suốt văn học, là chủ đề bao trùm thơ ca hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong bản đại hợp xướng của thơ ca viết về đất nước thì chương “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là khúc nhạc gây được ấn tượng riêng với giai điệu vừa hào hứng vừa sâu lắng vừa tràn đầy tình cảm vừa giàu chất trí tuệ. Bài thơ không những thể hiện lòng yêu nước mà còn là sự nhận thức sự định nghĩa về đất nước.


    Nét đặc sắc trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là đất nước được cảm nhận trên nhiều bình diện, từ thời gian lịch sử đến không gian địa lý và bề dày văn hoá. Tất cả đều được dọi chiếu bởi tư tưởng chủ đạo là tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.


    Trước hết đất nước được cảm nhận một cách toàn diện, trên nhiều phương diện trong sự gắn bó với mỗi cá nhân và cả cộng đồng với cuộc sống bình thường của mỗi con người. Đất nước xa xôi mà không xa vời. Đất nước gần gũi quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày.


    Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không phải là cái gì trừu tượng mà là những gì gần gũi cụ thể thân thiết nhất. Đất nước có trong câu chuyện “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể” - đất nước có trong phong tục ăn trầu của bà, đất nước gần gũi thân thiết trong hạt gạo một nắng hai sương, đất nước có trong cái kèo cái cột, có dưới mỗi mái nhà ta ở. Đất nước đó là tình mẹ tình cha:


    “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

    Cái kèo cái cột thành tên

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

    Đất Nước có từ ngày đó”


    Cách cảm nhận trên của Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đất nước từ một khái niệm thiêng liêng nhưng cũng vô cùng bình dị gần gũi. Đất nước xa xôi vì khi ta lớn lên đất nước đã có rồi nhưng đất nước không hề xa vời vì đất nước có trong cuộc sống hàng ngày mà ai cũng có thể cảm nhận được.


    Nhà thơ cảm nhận đất nước trong chiều rộng “không gian mênh mông” chiều dài “thời gian đằng đẵng” và chiều sâu văn hoá. Tất cả đều thật gần gũi thân thiết với mỗi con người.


    Không gian địa lý của đất nước là biên giới lãnh thổ, là núi, sông, rừng, biển:

    “Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc.

    Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”


    Không gian đất nước còn là không gian của mỗi cá nhân trong cuộc sống hàng ngày, thật bình dị mà cũng thiêng liêng:


    “Đất là nơi anh đến trường

    Nước là nơi em tắm

    Đất Nước là nơi ta hò hẹn

    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn tay trong nỗi nhớ thầm”


    Đất nước ghi dấu những kỷ niệm riêng tư đẹp đẽ của mỗi con người. Ở những câu thơ trên tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật có thể coi là chơi chữ. Khi tách đất nước thành hai thành tố: “Đất” và “Nước”. Đất nước là từ ghép thì là khái niệm chỉ tổ quốc, một khái niệm trừu tượng. Khi tách “đất nước” thành hai từ đơn thì “đất” và “nước” chỉ cái khái niệm cụ thể. Biện pháp nghệ thuật chiết tự này có tác dụng đưa đất nước từ một khái niệm trừu tượng trở thành những gì gần gũi cụ thể thân thiết nhất. Mỗi con người gắn bó với Tổ quốc mình cũng thiêng liêng bình dị như gắn bó máu thịt không thể thiếu.


    Nói về thời gian lịch sử, tác giả gợi lại những thần thoại những truyền thuyết về dân tộc, những thần thoại, những truyền thuyết này là rất quen thuộc với mỗi người Việt Nam. Như truyền thuyết Lạc Long Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” truyền thuyết vua Hùng với ngày giỗ Tổ, truyền thuyết Thánh Gióng với vó ngựa sắt đi qua “trăm ao đầm còn để lại”. Việc gợi lại những huyền tích những huyền sử này có tác dụng thể hiện thời gian “đằng đẵng” trong suốt chiều dài lịch sử đồng thời gợi lên niềm tự hào sâu xa ở mỗi người Việt Nam. Ai là người Việt Nam mà không nhớ về cội nguồn dân tộc.


    Nói về nền văn hoá đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng định nghĩa thật giản dị. Văn hoá đó là phong tục tập quán quen thuộc đối với mỗi người dân. Trên thế giới cho đến hôm nay đã có trên bốn nghìn năm định nghĩa về văn hoá, bao nhà tư tưởng bao triết gia, bao nhà văn hoá cố gắng đi tìm một định nghĩa chính xác nhất về văn hoá. Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một định nghĩa giản dị mà sâu xa. Văn hoá ấy là phong tục tập quán thành thói quen thành nếp sống của mỗi con người. Văn hoá ấy là phong tục ăn trầu của bà, là phong tục búi tóc sau đầu của mẹ.


    Từ những cảm nhận trên tác giả đi đến một mục đích quan trọng nhất: đất nước có trong mỗi người vì vậy mỗi cá nhân phải có trách nhiệm đối với đất nước.


    Điều đặc sắc nhất là tác giả cảm nhận đất nước không chỉ như cái khách thể ở ngoài con người mà còn cái chủ thể có trong mỗi con người, đã trở thành máu thịt thành cuộc đời của mỗi con người:


    “Em ơi em

    Đất Nước là máu xương của mình

    Phải biết gắn bó và san sẻ

    Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

    Làm nên Đất Nước muôn đời”


    Chính vì xác định được trong mỗi con người có một phần đất nước nên nhà thơ xác định mồi cá nhân phải biết hy sinh cho đất nước cho dân tộc. Cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm rất gần với cách cảm nhận của Chế Lan Viên khi viết về đất nước:


    “Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt

    Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

    Ôi! Tổ quốc nếu cần ta chết

    Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”


    Điểm đặc sắc nhất trong chương “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ đã cảm nhận đất nước trong sự đối chiếu bởi tư tưởng chủ đạo Đất Nước của Nhân dân.


    Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ chương Đất Nước đã từng được thể hiện trong phần đầu nhưng tập trung kết tinh là ở giai đoạn hai của chương V này.


    Để viết về Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã sử dụng ngay những sáng tạo của nhân dân. Để thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân thì không gì tốt hơn là dùng ngay lời ăn tiếng nói của nhân dân. Chính vì vậy mà ở đoạn này tác giả đã sử dụng rộng rãi những chất liệu của văn hoá dân gian. Nhà thơ gọi lại những thần thoại truyền thuyết về Lạc Long Âu Cơ, Hùng Vương, về truyện cổ tích trầu cau, truyện cổ tích nàng Vọng Phu chờ chồng, truyền, thuyết Thánh Gióng. Tác giả cũng tạo dựng ý thơ từ những câu ca dao tục ngữ, câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” có nguồn gốc từ câu ca dao: “Tay nâng chén muối đĩa gừng, gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Còn câu thơ: “Dạy anh biết yêu em từ thủa trong nôi” có xuất xứ từ câu ca dao: “yêu em từ thủa trong nôi em nằm em khóc anh ngồi anh ru”. Việc sử dụng rộng rãi chất liệu dân gian để nói về đất nước không đơn thuần là thủ pháp nghệ thuật mà còn là sự thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.


    Không gian địa lý của đất nước, thời gian lịch sử của dân tộc và truyền thống văn hoá vật chất, tinh thần đều được cảm nhận trong sự gắn bó với nhân dân do nhân dân sáng tạo.


    Trở lại với không gian địa lý của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm có cách cảm nhận kỳ thú khi nói về danh lam thắng cảnh của đất nước. Những danh thắng đó đâu chỉ là tặng vật của tạo hoá ban cho mà còn là hình hài còn là số phận là ước vọng của bao cuộc đời bình dị chung đúc lên. Nếu không có bao người vợ chờ chồng qua những cuộc chiến tranh, những cuộc ly tán thì làm sao có sự tích nàng vọng phu trên cả 3 miền đất nước. Nếu không có công lao gian nan dựng nước của Vua Hùng thì làm sao có sự tích 99 con voi quay về đất tổ. Nếu không có chiến công của Thánh Gióng đuổi giặc Ân thì làm sao có sự tích về những ao đầm mà vó ngựa còn để lại. Và trên đất nước này bao đôi lứa yêu nhau bao cặp vợ chồng chung thuỷ đã lại hình thành hòn Trống Mái thuỷ chung và núi Bút non Nghiên hay là bao quyết tâm bao ước vọng của những người học trò nghèo đã hóa thân thành hình hài sông núi. Từ cách cảm nhận này Nguyễn Khoa Điềm đã viết những câu thơ trữ tình chính luận về đất nước:


    “Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

    Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

    Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”


    Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên”. Không chỉ ở nhân dân hoá thân vào đất nước mà nhân dân còn lưu lại trong những tên đất tên làng. Bao địa danh trên đất nước này mang những tên người nôm na bình bị, những “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Nhân dân đã hóa thân vào đất nước:


    “Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”


    Với Nguyễn Khoa Điềm thì lịch sử dân tộc cũng do nhân dân sáng tạo ra. Viết về đất nước tác giả không điểm lại những triều đại, những anh hùng nổi danh trong lịch sử mà ghi nhận công lao của những anh hùng vô danh. Những anh hùng vô danh ấy chính là nhân dân vô tận. Họ là những con người sống giản dị và bình tâm trong thầm lặng họ hi sinh cho đất nước. Họ là những con người không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ là người “làm ra Đất Nước”.


    Trở lại với nền văn hoá dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chính nhân dân là người sáng tạo những giá trị vật chất và tinh thần.


    Nhân dân truyền lại cho các thế hệ sau những giá trị vật chất từ hạt lúa đến ngọn lửa, truyền lại cho cháu con những giá trị tinh thần: Họ để lại cho thế hệ sau ngôn ngữ tiếng nói: “truyền lại giọng mình cho con tập nói”, họ để lại những tên đất tên làng: “gánh theo tên đất tên làng trong những chuyến di dân”.


    Để khẳng định vai trò sáng tạo văn hoá của nhân dân Nguyễn Khoa Điềm trở về với kho tàng văn học dân gian với ca dao tục ngữ. Vì chính ở đây là nơi lưu giữ những sáng tạo tinh thần văn hoá của nhân dân là nơi truyền giữ tâm hồn dân tộc. Đi vào kho tàng văn học dân gian tác giả khẳng định nhân dân chính là người sáng tạo, phát huy hai truyền thống lớn là truyền thống yêu nước bất khuất và nhân ái nghĩa tình. Truyền thống nhân ái nghĩa tình với câu thơ: “Dạy anh biết yêu em từ thủa trong nôi”, “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” (có nguồn gốc từ câu ca dao: “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”). Truyền thống yêu nước bất khuất với câu thơ: “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy. Đi trả thù mà không sợ dài lâu” có xuất xứ từ câu ca dao (Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què).


    Từ sự cảm nhận trên Nguyễn Khoa Điềm đi đến kết luận nhân dân là người sáng tạo ra đất nước trên tất cả các bình diện nhân dân là người xây dựng đất nước và cũng là người bảo vệ phát triển đất nước:

    “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

    Có nội thù thì vùng lên đánh bại

    Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân”


    Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” đã từng xuất hiện trong truyền thống lịch sử. Ở “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đã khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Minh:

    “Nhân dân bốn cõi một nhà

    Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới”


    Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng một tượng đài bất tử về những người anh hùng vô danh, về những người nông dân nghĩa sĩ. Phan Bội Châu đã khẳng định sự gắn bó giữa nhân dân với đất nước:


    “Dân là dân nước

    Nước là nước dân”


    Ở bài thơ “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi khẳng định cụ thể hơn đất nước gắn bó với người anh hùng áo vải:


    “Ôm đất nước những người áo vải

    Đã đứng lên thành những anh hùng”


    Những người dân bình thường giản dị, những người lao động chất phác thật thà. Khi cầm súng đứng lên bảo vệ Tổ quốc thì chính họ là những anh hùng…


    Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” từng manh nha (xuất hiện) trong truyền thống lịch sử được Nguyễn Khoa Điềm để nâng lên một tầm cao mới trong thời đại chống Mỹ. “Đất Nước của Nhân dân” được cảm nhận một cách toàn diện cả trong chiều dài thời gian, chiều rộng không gian và chiều sâu văn hoá. Nhà thơ không những khẳng định sự gắn bó với nhân dân mà còn khẳng định vai trò to lớn của nhân dân.


    Trong kho tàng văn học dân gian đã có nhiều bài thơ hay viết về chủ đề Tổ quốc. Có khi lòng yêu nước thể hiện qua sự gắn bó với mảnh đất quê hương như “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm. Có khi lại là sự gắn bó quê hương cách mạng như Việt Bắc của Tố Hữu. Ở “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp về chủ đề Tổ quốc được chi phối bởi ý thức, niềm tự hào làm chủ đất nước. Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận đất nước về nhiều phương diện, chương “Đất nước” cũng là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp nhưng lại rọi chiếu bởi tư tưởng chủ đạo là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Đây là đóng góp riêng và là đóng góp không nhỏ của Nguyễn Khoa Điềm trong dòng thơ viết về đất nước.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  7. Thơ ca Việt Nam ba mươi năm chiến tranh là một dàn hợp xướng về đất nước. Khi nhắc đến đề tài này, chắc chắn ta không thể quên được “Đất nước” trích trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Tác phẩm đã thể hiện những nét cảm nhận mới mẻ về đất nước của nhà thơ.


    Trước tiên, nét mới mẻ trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đó là ở thời điểm ra đời của đất nước. Nhà thơ đã xóa nhòa đi thời gian lịch sử cụ thể để gợi lên một đất nước rất lâu đời, chỉ biết rằng: “Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi”. Không chỉ vậy, đó còn là phạm vi tồn tại của đất nước. Đất nước không chỉ là không gian sống bình thường của mỗi con người mà đất nước còn tồn tại hiện diện ngay trong bản thân của mỗi cá nhân "Đất Nước là máu xương của mình" - gắn bó máu thịt với mỗi người dân. Đất nước còn hiện diện trong những câu chuyện cổ đặc biệt là truyện cổ tích, những câu chuyện vốn rất thân quen và gần gũi đối với mỗi con người ngay từ thuở ấu thơ, từ trong những lời kể thiết tha, ngọt ngào của mẹ:


    “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”


    Ở đây, đất nước không phải là một cái gì đó mơ hồ, bí ẩn mà rất gần gũi, quen thuộc với mỗi người.

    Đặt biệt nhất đó chính là những định nghĩa thật mới mẻ về đất nước. Trong mỗi một thời đại khác nhau lại có những quan điểm khác nhau về đất nước. Nếu ở thời trung đại, quan niệm đất nước phải là của vua, lãnh thổ do vua cai quản: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Thì đến thời cận đại, khi bàn về đất nước, Phan Bội Châu cho rằng: “Dân là dân nước, nước là nước dân”. Tuy rằng tư tưởng trên đã thể hiện tư tưởng tiến bộ hơn so với thời hiện đại nhưng vẫn còn mang nặng ý thức hệ của nhà nước phong kiến phương Đông và hệ tư tưởng tư sản. Đến thời đại Hồ Chí Minh các nhà thơ mới có ý thức sâu sắc nhất, thấm thía nhất về tư tưởng đất nước là của nhân dân, của quảng đại số đông quần chúng:


    “Ôm đất nước những người áo vải

    Đã đứng lên thành những anh hùng”

    (Nguyễn Đình Thi)


    Với Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân mới là chủ sở hữu duy nhất của đất nước.


    Đất nước còn là sự thống nhất của ba phương diện: chiều rộng không gian, chiều dài lịch sử và chiều sâu văn hóa. Trước hết, suy tư về đất nước trên chiều rộng lãnh thổ đó là điều không mới, nhưng chỗ đặc sắc nhất của Nguyễn Khoa Điềm là ông không gắn lãnh thổ với đế cư, với thiên thư mà gắn với nhân dân vĩ đại:


    “Đất là nơi anh đến trường

    Nước là nơi em tắm

    Đất Nước là nơi ta hò hẹn

    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

    Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

    Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”


    Theo cảm nhận của nhà thơ, “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi con người.


    Và:

    “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

    Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

    Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

    Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

    Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên

    Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

    Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”


    Đất nước đã trở thành một phần linh thiêng trong cuộc sống của con người. Mỗi người chỉ đóng góp một phần nhỏ bé để làm nên đất nước thôi. Cho nên xây dựng bảo vệ và hi sinh vì Đất Nước là vai trò trách nhiệm cao cả của chúng ta bởi “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”.


    Khi suy tư về “Đất nước” theo chiều dài lịch sử, điều đó cũng không phải mới mẻ. Nhưng cái mới của nhà thơ là khi nói về lịch sử mấy ngàn năm của Đất nước không dùng những sử liệu như những nhà thơ khác:

    “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

    Cùng Hán Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”

    (Nguyễn Trãi)


    Cũng không nhắc đến những anh hùng hữu danh trong lịch sử:

    “Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,

    Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,

    Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.

    Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”

    (Nguyễn Đình Thi)


    Mà Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến muôn vàn con người bình dị vô danh nhưng lại hết sức lớn lao phi thường:

    “Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

    Cần cù làm lụng

    Khi có giặc người con trai ra trận

    Người con gái trở về nuôi cái cùng con

    Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

    Nhiều người đã trở thành anh hùng

    Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

    Những em biết không

    Có biết bao người con gái, con trai

    Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

    Họ đã sống và chết

    Giản dị và bình tâm

    Không ai nhớ mặt đặt tên

    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”


    Chính họ đã làm ra đất nước. Họ còn sáng tạo và truyền lại cho thế hệ sau:

    “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

    Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

    Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

    Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

    Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”


    Họ là ai? Phải chăng là những người anh hùng hữu danh trong sử sách? Không, đó chỉ là một phần nhỏ bé trong chữ họ mà thôi. Họ ở đây lớn lao hơn nhiều, là nhân dân là cha ông thuở trước. Chữ “họ” được đứng ở chữ đầu dòng thơ và được điệp lại cho thấy vai trò lớn lao vĩ đại của nhân dân đối với Đất nước.


    Các động từ “giữ - truyền - gánh” cho ta một cảm nhận sự tiến hóa của lịch sử Việt Nam giống như một cuộc lao động lớn mà ở đó có sự tiếp sức không ngừng nghỉ của các thế hệ nhân dân. Họ đã tạo ra từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa được tạo nên bởi bước tiến của loài người đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán lâu đời: tên xã, tên làng, giọng nói cha ông… Như vậy, nhân dân chính là người làm nên giá trị tinh thần và vật chất cho Đất nước.


    Khi nói về Đất nước trong chiều sâu văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc đến các danh nhân như Nguyễn Trãi. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương mà nêu lên những truyền thống tinh thần của nhân dân:


    “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể

    Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

    Tóc mẹ thì bới sau đầu

    Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

    Cái kèo, cái cột thành tên

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

    Đất Nước có từ ngày đó”


    Những truyền thống văn hóa lâu đời nhưng thật giản dị được nhà thơ nhắc lại với một niềm tự hào sâu sắc.


    Như vậy, điểm mới trong nét cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước được hình thành từ những tư tưởng tiến bộ trong thời đại mới. Đó là những cảm nhận đúng đắn, sâu sắc về đất nước.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  8. Đất Nước là chương V của trường ca Mặt đường khát vọng. Trường ca này được viết vào những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ XX, trong cao trào cả nước đánh Mỹ.


    Trường ca Mặt đường khát vọng là tiếng nói xuống đường đấu tranh của tuổi trẻ các đô thị miền Nam trong vùng Mỹ Ngụy. Bản trường ca thể hiện ý thức tìm về dân tộc sự nhận thức bộ mặt thật của kẻ thù Mỹ Ngụy và ỷ thức về trách nhiệm của thế hệ trẻ trước đất nước nhân dân.


    Chủ đề đất nước là chủ đề xuyên suốt văn học, là chủ đề bao trùm thơ ca hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong bản đại hợp xướng của thơ ca viết về đất nước thì chương Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là khúc nhạc gây được ấn tượng riêng với giai điệu vừa hào hứng vừa sâu lắng vừa tràn đầy tình cảm vừa giàu chất trí tuệ. Bài thơ không những thể hiện lòng yêu nước mà còn là sự nhận thức sự định nghĩa về đất nước.


    Nét đặc sắc trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là đất nước được cảm nhận trên nhiều bình diện, từ thời gian lịch sử đến không gian địa lý và bề dày văn hoá. Tất cả đều được dọi chiếu bởi tư tưởng chủ đạo là tư tưởng Đất Nước của Nhân dân. Trước hết đất nước được cảm nhận một cách toàn diện, trên nhiều phương diện trong sự gắn bó với mỗi cá nhân và cả cộng đồng với cuộc sông bình thường của mỗi con người.


    Đất nước xa xôi mà không xa vời. Đất nước gần gũi quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày. Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không phải là cái gì chung chung trìu tượng mà là những gì gần gũi cụ thể thân thiết nhất. Đất nước có trong câu chuyện “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể” đất nước có trong phong tục ăn trầu của bà, đất nước gần gũi thân thiết trong hạt gạo một nắng hai sương, đất nước có trong cái kèo cái cột, có dưới mỗi mái nhà ta ở. Đất nước đó là tình mẹ tình cha:


    Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

    Cái kèo cái cột thành tên

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

    Đất Nước có từ ngày đỏ….


    Cách cảm nhận trên của Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đất nước từ một khái niệm thiêng liêng nhưng cũng vô cùng bình dị gần gũi. Đất nước xa xôi vì khi ta lớn lên đất nước đã có rồi nhưng đất nước không hề xa vời vì đất nước có trong cuộc sống hàng ngày mà ai cũng có thể cảm nhận được. Nhà thơ cảm nhận đất nước trong chiều rộng “không gian mênh mông” chiều dài “thời gian đằng đẵng” và chiều sâu văn hoá. Tất cả đều thật gần gũi thân thiết với mỗi con người. Không gian địa lý của đất nước là biên giới lãnh thổ, là núi, sông, rừng, biển:


    “Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc.

    Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”.


    Không gian đất nước còn là không gian của mỗi cá nhân trong cuộc sống hàng ngày, thật bình dị mà cũng thiêng liêng:


    Đất là nơi anh đến trường

    Nước là nơi em tắm

    Đất Nước là nơi ta hò hẹn

    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn tay trong nỗi nhớ thầm.


    Đất nước ghi dấu những kỷ niệm riêng tư đẹp đẽ của mỗi con người. Ở những câu thơ trên tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật có thể coi là chơi chữ. khi tách đất nước thành hai thành tố: đất nước. Đất nước là từ ghép thì là khái niệm chỉ tổ quốc, một khái niệm trìu tượng. Khi tách đất nước thành hai từ đơn thì đất và nước chỉ cái khái niệm cụ thể. Biện pháp nghệ thuật chiết tự này có tác dụng đưa đất nước từ một khái niệm trìu tượng trở thành những gì gần gũi cụ thể thân thiết nhất. Mỗi con người gắn bó với Tổ quốc mình cũng thiêng liêng bình dị như gắn bó máu thịt không thể thiếu.


    Nói về thời gian lịch sử tác giả gợi lại những thần thoại những truyền thuyết về dân tộc, những thần thoại, những truyền thuyết này là rất quen thuộc với mỗi người Việt Nam. Như truyền thuyết Lạc Long Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” truyền thuyết vua Hùng với ngày giỗ Tổ, truyền thuyết Thánh Gióng với vó ngựa sắt đi qua “trăm ao đầm còn để lại”. Việc gợi lại những huyền tích những huyền sử này có tác dụng thể hiện thời gian “đằng đẵng” trong suốt chiều dài lịch sử đồng thòi gợi lên niềm tự hào sâu xa ở mỗi người Việt Nam. Ai là người Việt Nam mà không nhớ về cội nguồn dân tộc.


    Nói về nền văn hoá đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng định nghĩa thật giản dị. Văn hoá đó là phong tục tập quán quen thuộc đối với mỗi người dân. Trên thế giới cho đến hôm nay đã có trên 4000 định nghĩa về văn hoá, bao nhà tư tưởng bao triết gia, bao nhà văn hoá cố gắng đi tìm một định nghĩa chính xác nhất về văn hoá. Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một định nghĩa giản dị mà sâu xa. Văn hoá ấy là phong tục tập quán thành thói quen thành nếp sống của mỗi con người. Văn hoá ấy là phong tục ăn trầu của bà, là phong tục bới tóc sau đầu của mẹ.


    Từ những cảm nhận trên tác giả đi đến một mục đích quan trọng nhất: đất nước có trong mỗi người vì vậy mỗi cá nhân phải có trách nhiệm đối với đất nước. Điều đặc sắc nhất là tác giả cảm nhận đất nước không chỉ như cái khách thể ở ngoài con người mà còn cái chủ thể có trong mỗi con người, đã trở thành máu thịt thành cuộc đời của mỗi con người:


    Em ơi em

    Đất Nước là máu xương của mình

    Phải biết gắn bó và san sẻ

    Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

    Làm nên Đất nước muôn đời


    Chính vì xác định được trong mỗi con người có một phần đất nước nên nhà thơ xác định mồi cá nhân phải biết hy sinh cho đất nước cho dân tộc. Cách cảm nhận của Nguyền Khoa Điềm rất gần với cách cảm nhận của Chế Lan Viên khi viết về đất nước:


    Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt

    Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

    Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết

    Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”


    Điểm đặc sắc nhất trong chương Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ đã cảm nhận đất nước trong sự đối chiếu bởi tư tưởng chủ đạo Đất Nước của Nhân dân. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ chương Đất Nước đã từng được thể hiện trong phần đầu nhưng tập trung kết tinh là ở giai đoạn hai của chương V này.


    Để viết về Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã sử dụng ngay những sáng tạo của nhân dân. Để thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân thì không gì tốt hơn là dùng ngay lời ăn tiếng nói của nhân dân. Chính vì vậy mà ở đoạn này tác giả đã sử dụng rộng rãi những chất liệu của văn hoá dân gian. Nhà thơ gọi lại những thần thoại truyền thuyết về Lạc Long Âu Cơ, Hùng Vương, về truyện cổ tích trầu cau, truyện cổ tích nàng Vọng Phu chờ chồng, truyền, thuyết Thánh Gióng. Tác giả cũng tạo dựng ý thơ từ những câu ca dao tục ngữ, câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” có nguồn gốc từ câu ca dao: “Tay nâng chén muối đĩa gừng, gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Còn câu thơ: “Dạy anh biết yêu em từ thủa trong nôi” có xuất xứ từ câu ca dao: “yêu em từ thủa trong nôi em nằm em khóc anh ngồi anh ru”. Việc sử dựng rộng rãi chất liệu dân gian để nói về đất nước không đơn thuần là thủ pháp nghệ thuật mà còn là sự thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.


    Không gian địa lý của đất nước, thời gian lịch sử của dân tộc và truyền thống văn hoá vật chất, tinh thần đều được cảm nhận trong sự gắn bó vói nhân dân do nhân dân sáng tạo. Trở lại với không gian địa lý của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm có cách cảm nhận kỳ thú khi nói về danh lam thắng cảnh của đất nước. Những danh thắng đó đâu chỉ là tặng vật của tạo hoá ban cho mà còn là hình hài còn là số phận là ước vọng của bao cuộc đời bình dị chung đúc lên. Nếu không có bao người vợ chờ chồng qua những cuộc chiến tranh, những cuộc ly tán thì làm sao có sự tích nàng vọng phu trên cả 3 miền đất nước. Nếu không có công lao gian nan dựng nước của Vua Hùng thì làm sao có sự tích 99 con voi quay về đất tổ. Nếu không có chiến công của Thánh Gióng đuổi gịặc Ân thì làm sao có sự tích về những ao đầm mà vó ngựa còn để lại. Và trên đất nước này bao đôi lứa yêu nhau bao cặp vợ chồng chung thuỷ đã lại hình thành hòn Trống Mái thuỷ chung và núi Bút non Nghiên hay là bao quyết tâm bao ước vọng của những người học trò nghèo đã hoá thân thành hình hài sông núi. Từ cách cảm nhận này Nguyễn Khoa Điềm đã viết những câu thơ trữ tình chính luận về đất nước:


    “Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

    Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

    Chín mươi chín coi voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm


    Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên”. Không chỉ ở nhân dân hoá thân vào đất nước mà nhân dân còn lưu lại trong những tên đất tên làng. Bao địa danh trên đất nước này mang những tên người nôm na bình bị, những “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Nhân dân đã hoá thân vào đất nước:


    Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta củng thấy

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta


    Với Nguyễn Khoa Điềm thì lịch sử dân tộc cũng do nhân dân sáng tạo ra. Viết về đất nước tác giả không điểm lại những triều đại, những anh hùng nổi danh trong lịch sử mà ghi nhận công lao của những anh hùng vô danh. Những anh hùng vô danh ấy chính là nhân dân vô tận. Họ là những con người sống giản dị và bình tâm trong thầm lặng họ hi sinh cho đất nước. Họ là những con người không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ là người “làm ra Đất Nước”. Trở lại với nền ván hoá dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chính nhân dân là người sáng tạo những giá trị vật chất và tinh thần. Nhân dân truyền lại cho các thế hệ sau những giá trị vật chất từ hạt lúa đến ngọn lửa, truyền lại cho cháu con những giá trị tinh thần: Họ để lại cho thế hệ sau ngôn ngữ tiếng nói: “truyền lại giọng mình cho con tập nói”, họ để lại những tên đất tên làng: “gánh theo tên đất tên làng trong những chuyến di dân”.


    Để khẳng định vai trò sáng tạo văn hoá của nhân dân Nguyễn Khoa Điềm trở về với kho tàng văn học dân gian với ca dao tục ngữ. Vì chính ở đây là nơi lưu giữ những sáng tạo tinh thần văn hoá của nhân dân là nơi truyền giữ tâm hồn dân tộc. Đi vào kho tàng văn học dân gian tác giả khẳng định nhân dân chính là người sáng tạo, phát huy hai truyền thống lớn là truyền thống yêu nước bất khuất và nhân ái nghĩa tình. Truyền thống nhân ái nghĩa tình với câu thơ: “Dạy anh biết yêu em từ thủa trong nôi”, “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” (có nguồn gốc từ câu ca dao: “Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”). Truyền thống yêu nước bất khuất với câu thơ: “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy. Đi trả thù mà không sợ dài lâu” có xuất sứ từ câu ca dao (“Thù này ắt hẳn còn lâu. Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què”).


    Từ sự cảm nhận trên Nguyễn Khoa Điềm đi đến kết luận nhân dân là người sáng tạo ra đất nước trên tất cả các bình diện nhân dân là người xây dựng đất nước và cũng là người bảo vệ phát triển đất nước:


    Có ngoại xâm thì chổng ngoại xâm

    Có nội thù thì vừng lên đánh bại

    Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân


    Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân đã từng xuất hiện trong truyền thống lịch sử.Ở Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Minh:


    Nhân dân bốn cõi một nhà

    Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới


    Với Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc Nguyễn Đình Chiểu đã dựng một tượng đài bất tử về những người anh hùng vô danh, về những người nông dân nghĩa sĩ. Phan Bội Châu đã khẳng định sự gắn bó giữa nhân dân với đất nước:


    Dân là dân nước

    Nước là nước dân


    Ở bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi khẳng định cụ thể hơn đất nước gắn bó với người anh hùng áo vải:


    Ôm đất nước những người áo vải

    Đã đứng lên thành những anh hùng


    Những người dân bình thường giản dị, những người lao động chất phác thật thà. Khi cầm súng đứng lên bảo vệ Tổ quốc thì chính họ là những anh hùng… Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân từng manh nha (xuất hiện) trong truyền thống lịch sử được Nguyễn Khoa Điềm nâng lên một tầm cao mới trong thời đại chống Mỹ. Đất Nước của Nhân dân được cảm nhận một cách toàn diện cả trong chiều dài thời gian, chiều rộng không gian và chiều sâu văn hoá. Nhà thơ không những khẳng định sự gắn bó với nhân dân mà còn khẳng định vai trò to lớn của nhân dân.


    Trong kho tàng văn học dân gian đã có nhiều bài thơ hay viết về chủ đề Tổ quốc. Có khi lòng yêu nước thể hiện qua sự gắn bó với mảnh đất quê hương như Bên kia sông Đuống của Hoàng cầm. Có khi lại là sự gắn bó quê hương cách mạng như Việt Bắc của Tố Hữu. Ở Đất nước của Nguyễn Đình Thi là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp về chủ đề Tổ quốc được chi phối bởi ý thức, niềm tự hào làm chủ đất nước. Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận đất nước về nhiều phương diện, chương Đất Nước cũng là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp nhưng lại rọi chiếu bởi tư tưởng chủ đạo là tư tưởng Đất Nước của Nhân dân. Đây là đóng góp riêng và là đóng góp không nhỏ của Nguyễn Khoa Điềm trong dòng thơ viết về đất nước.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  9. Chủ đề đất nước chưa bao giờ là cũ, và trong thời kì sôi nổi như kháng chiến chống Mĩ, đây lại càng là đề tài nổi bật nhất. Trên mặt trận văn hóa tinh thần, các nhà thơ trẻ đã thật sự làm nên một dàn đồng ca với những giọng thơ hết sức phong phú. Nếu Phạm Tiến Duật trẻ trung sôi nổi, Nguyễn Duy sâu sắc hóm hỉnh, Xuân Quỳnh đằm thắm yêu thương thì với “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã góp vào dàn đồng ca ấy một giọng thơ tâm tình sâu lắng. Vậy điều gì đã khiến “Đất Nước” bật lên giữa hàng trăm tác phẩm về chủ đề kinh điển, quê hương đất nước? Đó có lẽ chính là những cảm nhận mới là của Nguyễn Khoa Điềm về Đất nước đã làm nên sự khác biệt.


    Năm 1943, xứ Huế lại mang đến cho nền thi ca dân tộc một cây bút lỗi lạc. Đó có thể là ai nếu không phải là Nguyễn Khoa Điềm, người đã mang lại cho cuộc đời biết bao tác phẩm rất đặc sắc, rất riêng. Nhìn lướt qua tiểu sử cuộc đời ông, sinh ra tại Huế, học ở Hà Nội, làm việc ở miền Nam rồi trở về quê hương thì chẳng lạ gì khi ông có kiến thức sâu sắc về Tổ quốc mình đến vậy. RIêng “Đất Nước”,được trích từ tác phẩm “Trường ca Mặt đường khát vọng”, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ vùng tạm chiếm miền Nam.


    Khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta sắp bước vào thời điểm quyết định nhất, Nguyễn Khoa Điềm không hướng ngòi bút vào hiện thực khốc liệt của chiến tranh như những cây bút đồng thời mà lặng lẽ đối thoại với thanh niên để thức tỉnh họ. Lúc bấy giờ, với sự giáo dục của Mĩ mang đậm tính chất chủ nghĩa tư bản “Biên giới Hoa Kì kéo dài đến vĩ tuyến 17, ở đâu sung sướng, ở đâu kiếm được nhiều tiền thì ở đó là Tổ quốc.” Một bộ phận tuổi trẻ vùng đô thị tạm chiếm miền Nam đã sống một cách rất vô tư, thờ ơ khi danh dự, tất đất của Tổ quốc bị chà đạp bởi thứ văn hóa nô dịch sặc mùi Đế quốc.


    Nét mới đầu tiên của tác giả chính là cái nhìn bình dị về quê hương. Các nhà thơ đi trước và cùng thế hệ Nguyễn Khoa Điềm đã mải mê tự tạo ra khoảng cách để chiêm ngưỡng hình ảnh Tổ quốc với những nét kì vĩ, mỹ lệ đầy lớn lao hay những trang sử hào hùng. Như cách Nguyễn Đình Thi cảm nhận Đất nước ở những nét rất hoành tráng trong một tác phẩm cùng tên


    “Súng nổ rung trời giận dữ

    Người lên như nước vỡ bờ

    Nước Việt Nam từ máu lửa

    Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!”


    Giản dị hơn, Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn một “Đất Nước” rất thân thuộc, gần gũi. Ông bắt đầu bài thơ với những điều đơn sơ nhất.


    “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

    Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”


    Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm không dứt khoát màu lửa mà da diết sâu lắng với những điều quen thuộc nhất: câu chuyện cổ tích mẹ kể, “miếng trầu bây giờ bà ăn”, ngôi nhà, hạt gạo,… Một nét mới nhưng không kém phần đặc sắc của tác giả chính là giọng thơ suy tư trong cả đoạn trích. Đoạn thơ mở đầu cũng có thể được xem như câu trả lời cho từng câu hỏi ẩn hiện xuyên suốt đoạn thơ: Đất nước có từ bao giờ? Đất nước trưởng thành ra sao?... Có thể thấy cách nhìn nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm được xây dựng tương tự như hành trình cuộc đời của một con người. Và lịch sử lâu đời của Đất nước không được cắt nghĩa bằng sự nối tiếp của các triều đại “Từ Triệu ĐInh Lý Trần bao đời gây nền độc lập” (Bình Ngô đại cáo) hay các sự kiện lịch sử mà lại được vẽ nên từ những câu chuyện kể tuổi thơ, gợi nhớ đến các truyền thuyết xa xưa: sự tích trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng,… Nền văn minh dân tộc cùng những phong tục tập quán lâu đời cũng được lưu giữ trong từng dòng “Đất Nước”.


    Tiếp nối mạch thơ chính luận- trữ tình là câu trả lời cho câu hỏi: Đất nước là gì? Điểm đặc sắc nhất xuyên suốt phần đầu đoạn trích chính là cách Nguyễn Khoa Điềm chia tách nhằm định nghĩa hai yếu tố đất, nước để có thể cảm nhận và suy tư sâu hơn về Đất nước chứ không chỉ dừng lại ở khái niệm đơn thuần. Hình tượng Đất nước thiêng liêng qua ngòi bút của tác giả vừa mang tính cá thể hóa lại vừa hết sức táo bạo đong đầy quan niệm mới của tuổi trẻ


    “Đất là nơi anh đến trường

    Nước là nơi em tắm

    Đất Nước là nơi ta hò hẹn

    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm….”


    Đát nước nay không còn là máu lửa chiến tranh mà đong đầy kỉ niệm tình yêu dịu ngọt trong đôi mắt của những người trẻ tuổi. Đất nước, cái không gian tuyệt diệu ấy không chỉ chứa đựng tình yêu hiện tại mà còn là của biết bao thế hệ qua đi, hướng suy tư của chúng ta về nguồn cội. Cái không gian về tình yêu ấy theo ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm dần mở rộng theo nhiều chiều, để rồi hướng tới một cái nhìn toàn vẹn hơn từ lịch sử đến địa lí sang văn hóa phong tục. Từ đó, tứ thơ hướng độc giả vào những suy ngẫm về trách nhiệm của thế hệ mình, như một lời nhắc nhở cả thế hệ tự ý thức một cách rất nhẹ nhàng.


    “Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình

    Phải biết gắn bó và san sẻ

    Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

    Làm nên Đất Nước muôn đời…”


    Với cách dùng cụm từ “em ơi em”, đoạn thơ từ một lời giáo huấn nay đã được chuyển hóa nhẹ nhàng thành một lời dặn dò, tâm sự. Ở đây, ta phải hiểu được cái hay của Nguyễn Khoa Điềm chính là tứ thơ rất tâm lí, đánh động vào tim người đọc. Con người ta luôn có một thói quen bảo hộ và giành lại những gì “của mình”, nhất là lớp thanh niên được giáo dục dưới ngọn cờ chủ nghĩa Đế quốc. Tác giả đã đánh một đòn tâm lí rất mạnh thông qua ý thơ trên với một giọng thơ thật dịu dàng.


    Nét mới trong cách nhìn nhận của Nguyễn Khoa Điềm mà có thể xem là đặc sắc nhất, làm nên sự khác biệt của “Đất Nước” so với các tác phẩm cùng đề tài chính là quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”. Với cách nghĩ và ý kiến thông thường, đa phần các tác giả sẽ nhắc đến các trang sử hào hùng làm nên một Việt Nam nghìn năm văn hiến, với truyền thống dựng nước và giữ nước. Như cách “Tổ quốc tôi bao giờ đẹp thế này chăng?” của Chế Lan Viên nhìn Đất nước qua bề dày lịch sử oai hùng.


    “Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

    Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn

    Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc

    Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng”


    Tuy nhiên, ta có thể thấy xuyên suốt “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc đến những tên tuổi vang dội hay những thắng lợi lịch sử mà đổi lại là những con người, nhân dân bé nhỏ “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng lại là những người “làm ra Đất Nước”. Có thể nói tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” là cốt lõi của cả đoạn trích, nhưng lại được khai thác mạnh mẽ nhất ở phần cuối bài. Tất cả những vẻ đẹp của Đất nước trên mọi phương diện văn hóa, lịch sử, địa lí theo Nguyễn Khoa Điềm, chính là những tinh hoa của bao công sức, khát vọng của nhân dân. Ông nhấn mạnh lớp người vô danh “đã sống và chết/ Giản dị và bình tâm”. Cuối cùng, cốt lõi của cả đoạn trích được tác giả một lần nữa nếu rõ và khẳng định


    “Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân

    Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”


    Với một cái nhìn đầy suy tưởng cùng việc lấy tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” làm chủ đạo, xen lẫn trong giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng đã làm nên những nét mới trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về Đất nước. Bên cạnh đó, nghệ thuật sử dụng đầy sáng tạo các chất liệu văn hóa, văn học dân gian cũng góp phần tăng thêm sự hấp dẫn của đoạn trích. Cùng nhau, tất cả đã mang đến sự khác biệt đầy nổi bật của tác phẩm “Trường ca Mặt đường khát vọng” nói chung và đoạn trích “Đất Nước” nói riêng giữa rất nhiều các tác phẩm đương thời.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy