Bài văn thuyết minh về tác giả Nam Cao số 4

Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri. Ông sinh năm 1917, trong một gia đình nông dân tại làng Đại Hoàng, thuộc tống Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Làng Đại Hoàng nằm trong vùng đồng chiêm trũng, nông dân quanh năm nghèo đói, lại bị bọn cường hào ức hiếp, đục khoét tàn tệ. Nam Cao là con người duy nhất trong gia đình khá đông con - được ăn học tử tế. Học xong bậc Thành chung, Nam Cao vào Sài Gòn giúp việc cho một hiệu may.


Thời kỳ này, ông bắt đầu sáng tác và mơ ước được đi xa, mở mang kiến thức, trau dồi tài năng, xây dựng một sự nghiệp văn học có ích. Nhưng rồi vì ốm yếu, Nam Cao lại trở về quê và thất nghiệp. Sau ông lên Hà Nội, dạy học ở một trường tiểu học tư thục. Nhưng cuộc đời "giáo khổ trường tư" đó cũng không yên: quân Nhật vào Đông Dương, trường của ông phải đóng cửa để làm chuồng ngựa cho lính Nhật. Nhà văn - lại thất nghiệp, sông lay lắt bằng nghề viết văn và làm gia sư, trong khi gia đình ở quê đang ngày càng khốn khó. Năm 1943, Nam Cao tham gia Hội văn hóa cứu quốc. Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác vùng sau lưng địch thuộc Liên khu III, Nam Cao đã bị địch phục kích bắt được và bắn chết gần Hoàng Đan (thuộc tỉnh Ninh Bình khi đó). Nhà văn ngã xuống giữa lúc ông đang bước vào thời kỳ "chín" mới về tư tưởng và tài năng, hứa hẹn những sáng tác có tầm vóc về thời đại mới.


Trước cách mạng, Nam Cao thường mang nặng tâm sự u uất, bất đắc chí. Đó không chỉ là tâm sự người nghệ sĩ “tài cao, phận thấp, chí khí uất” (thơ Tản Đà), mà còn là nỗi bi phẫn sâu xa của người trí thức giàu tâm huyết trước cái xã hội bóp nghẹt sự sống con người khi đó. Song Nam Cao không vì bất mãn cá nhân mà trở nên khinh bạc, trái lại ông có một tấm lòng thật đôn hậu, chan chứa yêu thương. Đặc biệt, sự gắn bó ân tình sâu nặng với bà con nông dân nghèo khổ ruột thịt ở quê hương là nét nổi bật ở Nam Cao. Chính tình cảm yêu thương gắn bó đó là một sức mạnh bên trong của nhà văn, giúp ông vượt qua những cám dỗ của lối sống thoát ly hưởng lạc, tự nguyện tìm đến và trung thành với con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh”.


Bình sinh, Nam Cao thường day dứt, hối hận vì những sai lầm - có khi chi trong ý nghĩ - của mình. Người trí thức “trung thực vô ngần” (lời Tô Hoài) ấy luôn nghiêm khắc tự đấu tranh bản thân để vượt mình, cố thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen, khao khát hướng tới “tâm hồn trong sạch và mơ tới những cảnh sống, những con người thật đẹp” (Nhật ký Nam Cao, ghi ngày 31 tháng 8 năm 1950). Có thể nói, giá trị to lớn của sự nghiệp văn học của Nam Cao gắn liền với cuộc đấu tranh bản thân trung thực, dũng cảm trong suốt cuộc đời cầm bút của nhà văn.


Cuộc đời lao động nghệ thuật vì lý tưởng nhân đạo, lý tưởng cách mạng và sự hy sinh anh dũng của Nam Cao mãi mãi là tấm gương cao đẹp của một nhà văn - chiến sĩ. Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về “sống và viết”. Ban đầu, ông chịu ảnh hưởng sâu của phong trào lãng mạn đương thời, đã sáng tác những bài thơ, chuyện tình lâm li dễ dãi. Nhưng ông đã dần dần nhận ra rằng thứ văn chương đó rất xa lạ đối với đời sống lầm than của đông đảo quần chúng nghèo khổ xung quanh. Và ông đã đoạn tuyệt với nó để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh”. Trong truyện ngắn “Trăng sáng” (1943), được coi là một tuyên ngôn nghệ thuật đanh thép, cảm động, ông viết: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”. Theo Nam Cao, người cầm bút không được “trốn tránh” sự thực, mà hãy “cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời…”


Lên án văn chương thoát ly, Nam Cao không tán thành loại sáng tác "chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội". Trong truyện ngắn “Đời thừa” (1943), Nam Cao cho rằng một tác phẩm "thật giá trị" thì phải có nội dung nhân đạo sâu sắc: “Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn”. Đồng thời, nhà văn đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo trong nghề văn và lương tâm người cầm bút. Ông viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Đời thừa). Ông coi sự cẩu thả trong nghề văn chẳng những là "bất lương" mà còn là "đê tiện". Sau cách mạng, Nam Cao say mê, tận tụy trong mọi công tác phục vụ kháng chiến được giao, không nề hà lớn nhỏ, với ý nghĩa dứt khoát: lợi ích cách mạng, lợi ích dân tộc là trên hết.


Nam Cao có sáng tác đăng báo từ 1936, nhưng sự nghiệp văn học của ông chỉ thật sự bắt đầu từ truyện ngắn “Chí Phèo” (1941), sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tập trung vào hai đề tài chính: cuộc sống người trí thức tiểu tư sản nghèo và cuộc sống người nông dân ở quê hương. Ở đề tài người trí thức tiểu tư sản, đáng chú ý là các truyện ngắn: Những truyện không muốn viết, Trăng sáng, Mua nhà, Truyện tình, Quên điều độ, Cười, Nước mắt, Đời thừa… và tiểu thuyết Sống mòn (1944). Trong những sáng tác này, Nam Cao đã miêu tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, dở sống dở chết của những người nghèo, những “giáo khổ trường tư”, nhà văn nghèo, viên chức nhỏ… Nhà văn đặc biệt đi sâu vào những bi kịch tâm hồn của họ, qua đó, đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, vượt khỏi phạm vi của đề tài. Đó là tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của người trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần, nhưng lại bị gánh nặng về cơm áo và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn”, phải sống cuộc “đời thừa”. Những tác phẩm đó đã phê phán sâu sắc xã hội phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời, đã thể hiện sự tự đấu tranh bên trong của người trí thức tiểu tư sản trung thực cố vươn tới một cuộc sống đẹp đẽ, thực sự có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.


Nam Cao để lại chừng hai chục truyện ngắn viết về cuộc sống tăm tối thê thảm của người nông dân đương thời. Những truyện đáng chú ý là: Chí Phèo, Trẻ con không được ăn thịt chó, Mua danh, Tu cách mõ, Điếu văn, Một bữa no, Lão Hạc, Một đám cưới, Lang Rận, Dì Hảo, Nửa đêm... Ở đề tài này, Nam Cao thường quan tâm tới những hạng cố cùng, những số phận hẩm hiu, bị ức hiếp nhiều nhất. Họ càng hiền lành, nhịn nhục thì càng bị chà đạp phũ phàng. Ông đặc biệt đi sâu vào những trường hợp con người bị lăng nhục một cách độc ác, bất công, mà xét đến cùng, chẳng qua chỉ vì họ nghèo đói, khốn khổ.


Tuy giọng văn lắm khi lạnh lùng, nhưng kỳ thực, Nam Cao đã dứt khoát bênh vực quyền sống và nhân phẩm những con người bất hạnh, bị xã hội đẩy vào tình cảnh nhục nhã đó (Chí Phèo, Một bữa no, Tư cách mõ, Lang Rận). Viết về những người nông dân bị lưu manh hóa, nhà văn đã kết án sâu sắc cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thế xác và linh hồn người nông dân lao' động, đồng thời, ông vẫn phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện, đẹp đẽ của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập tới mất cả hình người, tính người. Nhà văn đã đặt ra vấn đề phải xác định "đôi mắt" đúng đắn để nhìn nhận về quần chúng. Ông luôn ý thức "cố mà tìm hiểu" cái "bản tính tốt" của người nông dân nghèo thường bị "che lấp", vùi dập. Trong nhiều tác phẩm, Nam Cao không những đã vạch ra nỗi khổ cùng cực của người nông dân mà còn thể hiện cảm động bản chất đẹp đẽ, cao quý trong tâm hồn của họ (Lão Hạc, Một đám cưới, Dì Hảo...).


Có thể nói, dù viết về người trí thức nghèo hay về người nông dân cùng khổ, diều làm cho Nam Cao day dứt tới đau đớn là tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí bị hủy diệt cả nhân tính, trong cái xã hội phi nhân đạo đương thời. Cũng như các nhà văn tiểu tư sản khác chưa nắm được chân lý cách mạng, Nam Cao không thấy được khả năng đổi đời của những người khốn cùng và triển vọng của xã hội. Song trong truyện ngắn “Điếu văn” (1944), ông đã viết những dòng dự báo sôi nổi: “Sự đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi!”. Đó là lời chào đón thắm thiết tia sáng rạng đông đang báo hiệu ở chân trời lúc bấy giờ. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nam Cao lao mình vào mọi công tác cách mạng và kháng chiến.


Truyện ngắn Đôi mắt (1948) là một thành công xuất sắc của văn nghệ kháng chiến khi đó. Nhìn vào hình ảnh một trí thức cũ đi tản cư theo kháng chiến nhưng giữ nguyên lối sống trưởng giả, nhởn nhơ và "đôi mắt" khinh thường đối với quần chúng - hình ảnh thật lạc lõng giữa cuộc sống kháng chiến lành mạnh sôi nổi lúc bấy giờ. Người trí thức đi theo cách mạng càng thêm dứt khoát từ bỏ con người cũ, lôi sông cũ và quyết tâm "cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt", trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. “Nhật kí ở rừng” (1948) viết trong thời kỳ nhà văn công tác ở vùng sâu Bắc Cạn và tập kí sự “Chuyện biên giới” (1950) viết khi ông đi chiến dịch Cao - Lạng đều là những sáng tác giá trị của nền văn xuôi mới còn non trẻ khi đó. Nhà văn hy sinh giữa lúc tư tưởng và tài năng đang độ phát triển nhất trong thời đại mới, đầy hứa hẹn.


Ngòi bút Nam Cao vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Văn Nam Cao vừa hết sức chân thực - ông coi sự thực là trên hết, không gì ngăn được nhà văn đến với sự thực - vừa thấm đượm ý vị triết lý trữ tình. Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm lý con người. Ngôn ngữ trong văn đầy sống động, uyển chuyển, tinh tế, rất gần với lời ăn tiếng nói quần chúng.


Với một tài năng lớn, giàu sức sáng tạo, Nam Cao đã góp phần quan trọng vào việc cách tân nền văn xuôi Việt Nam theo hướng hiện đại hóa.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy