Vũ Duệ - Cõng em học lỏm.
Top 6 trong Top 10 Gương hiếu học của Việt Nam.
Vũ Duệ sinh (1468-1520),là một bậc danh thần tiết nghĩa, cũng là nhà thơ có tiếng đời Lê.
Ông người làng Trình Xá, huyện Sơn Vị, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), đỗ Trạng nguyên niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490) dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Tương truyền, lúc lên bốn, ông bị bệnh đậu mùa, nặng đến nỗi lả người đi. Bố mẹ tưởng ông đã chết, nhưng nhà nghèo quá phải bó thây ông bằng chiếc chiếu buồm, đem bỏ ở ngoài hè vì sợ lây, định sáng sớm mai sẽ đưa đi chôn. Nhà có nuôi một con chó rất khôn, nó cứ ngồi canh suốt đêm bên cạnh bó chiếu. Đến sáng, người nhà định ra lấy xác mang đi thì con chó nhảy lồng lên rất dữ tợn. Hai, ba lần đều như thế. Người nhà không hiểu ra sao, đành chờ. Đến chiều hôm đó, trời bỗng đổ cơn mưa, tự nhiên nghe trong bó chiếu có tiếng khóc ú ớ, thì ra cậu bé đã tỉnh lại. Bố mẹ chạy ra mang con vào nhà thì con chó vẫy đuôi mừng rỡ và để cho mang vào.
Thuở nhỏ, Vũ Duệ có tên là Vũ Nghĩa Chí. Cậu bé có điều thiệt thòi hơn các bạn đồng trang lứa, vì nhà nghèo quá mà không được đi học. Hàng ngày cậu bé Nghĩa Chí phải trông em, lo cơm nước để bố mẹ đi làm ngoài đồng. Nhưng nhờ trời, cậu bé rất sáng dạ lại ham học. Như đã thành lệ, mỗi buổi sáng khi thầy đồ bắt đầu dậy chữ cũng là lúc Nghĩa Chí cõng em đứng ở ngoài hiên, chăm chú nghe thầy giảng bài.
Thời gian thấm thoắt trôi, cũng đã gần một năm rồi, cậu học trò nhỏ vẫn rất mực chuyên cần, ngày ngày chăm chỉ tới lớp học lỏm.
Thầy đồ thấy Nghĩa Chí nhà nghèo lại ham học như thế, thì có phần mến phục trong lòng. Một hôm, thầy nảy ra ý muốn thử tài cậu bé. Nếu cậu bé thực sự thông minh, thầy sẽ tìm cách giúp.
Thầy đồ đặt ra một câu hỏi. Cả lớp nhìn nhau, câu hỏi hóc búa quá, không ai trả lời được. Lúc này thầy mới nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi Vũ Nghĩa Chí đang cõng em, bắt gặp ánh mắt sáng ngời của cậu học trò nhỏ đang nhìn lại mình, ý chừng cậu muốn trả lời câu hỏi ấy thay cho các bạn trong lớp.
Thấy vậy, thầy đồ hỏi:
- Liệu con có trả lời được câu hỏi của ta không?
- Dạ, thưa thầy được ạ! - Cậu bé trả lời.
- Con thử nói xem nào! - Thầy ôn tồn bảo em.
Được phép thầy, Nghĩa Chí đáp trôi chảy, mạch lạc, đâu ra đấy. Thầy đồ gật đầu tán thưởng. Cả lớp kinh ngạc thán phục. Thầy ra tận nơi Chí đứng, xoa đầu em hỏi mới biết tên em là Nghĩa Chí. Thầy nói:
- Cái tên Nghĩa Chí tuy hay, nhưng vẫn chưa xứng với tài năng của con. Nay thầy muốn đổi cho con cái tên mới là Duệ. Duệ có nghĩa là sáng suốt, hiểu biết sâu xa. Liệ có được không?
Nghĩa Chí gật đầu ưng thuận, rồi vái tạ thầy ra về. Từ đó em có tên là Vũ Duệ.
Ngay sau buổi học đó, thầy đồ đến tận nhà cậu bé, khuyên nhủ cha mẹ cho Duệ đi học.
Thế là Vũ Duệ đến lớp học chính thức, như bao học trò khác, bên thầy, bên bạn. Chỉ vài tháng sau, Vũ Duệ đã là học trò giỏi nhất lớp.
Vũ Duệ không những học giỏi mà sự thông minh, láu lỉnh cũng hiếm ai bằng.
Có lần, bố mẹ đi vắng, có người cùng làng đến đòi nợ, hỏi:
- Bố mẹ cháu đi đâu?
Vũ Duệ đáp:
- Bố cháu đi chém cây sống, trồng cây chết. Mẹ cháu đi bán gió, mua que.
Người nọ lạ lắm, suy nghĩ mãi vẫn không nghĩ ra bố mẹ cháu bé đi đâu. Căn vặn mãi Duệ chỉ cười mà không đáp. Người khách không nhịn nổi tò mò mới dỗ dành.
- Cháu cứ nói thật đi, ta sẽ xóa nợ cho.
Nghe thế, Duệ chạy tót ra vườn lấy một cục đất sét bảo khách in tay vào để làm tin. Sau đó cậu mới giải thích:
- Cha cháu đi nhổ mạ, cấy lúa. Đấy chẳng phải chém cây sống, trồng cây chết là gì! Còn mẹ cháu đi bán quạt, rồi mua tre về làm quạt, thế là đi bán gió mua que.
Người khách chịu Vũ Duệ thông minh, bèn bỏ về. Hôm sau nữa lại đến đòi nợ. Duệ đưa hòn đất có dấu tay in, nói:
- Hôm trước ông điểm chỉ vào đây rồi, còn đòi gì nữa.
Người khách ngẩn người ra, đành thôi không đòi nợ nữa, còn món nợ thì để giúp Vũ Duệ mua sách vở học.
Vũ Duệ có trí nhớ kỳ lạ, các sách chỉ cần đọc qua một lần là thuộc. Vì nghèo khổ quá, nhà thủng dột tứ tung, nên ông hay ra ngoài cầu lợp ở đầu làng để học cho khỏi ướt. Một hôm trời rét, ông nằm co ro trên sàn cầu, chợt có quan Thái phó đi qua, ông cứ nằm ì không dạy. Quan thét mắng, cho thế là người vô lễ và ngông cuồng, sai lính đến hỏi tội.
Vũ Duệ nói với người lính:
- Chú bẩm hộ với quan tôi không phải là cuồng mà là học trò nghèo, có biết quan đi qua, nhưng rét quá co quắp cả chân tay, không dậy được.
Quan nói:
- Đã khoe là học trò thì ta ra cho một bài thơ, lấy nằm co làm đề, lấy cuồng làm vần, hễ không làm được, ta sẽ đánh đòn.
Vũ Duệ vẫn không thèm dạy, cứ nằm mà đọc luôn:
Ba gian cầu trống khổ mình ông
Rét quá nằm co há phải cuồng.
Cá lớn nép vây miền Bắc Hải
Rồng thiêng uốn khúc chốn Nam Dương
Một niềm trung ái lo cho trọn
Hai chữ công danh níu chằng buông
Có khuất bao nhiêu thời có duỗi.
Sang xuân ấm áp hãy ra tuồng.
Quan Thái phó thấy bài thơ có khí phách, thưởng cho ông rất hậu và tỏ ý kính trọng.
Năm Canh Tuất (1490), đời vua Lê Thánh Tông, Vũ Duệ dự thi, đỗ Trạng nguyên. Trong buổi tiệc vua ban để trọng đãi các vị tân khoa, thấy Vũ Duệ đối đáp thông minh, lại hiểu rộng biết nhiều. Vua vui mừng nói với cận thần tả hữu rằng:
- Nếu quốc gia có sự gì, đã có người này gánh vác.
Ban đầu, Vũ Duệ được bổ làm Tham chính trấn Hải Dương. Đến đời vua Lê Chiêu Tông, ông được thăng chức Thượng thư bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ, tước trình khê hầu.
Vũ Duệ tính cương trực, thẳng thắn, nên vua Lê rất tin dùng, các quan trong triều ai cũng kính nể.
Khi nhà Lê suy vong, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, dụ ông ra làm quan, ông chửi mắng thậm tệ, rồi đeo ấn tín nhảy xuống cửa Thần Phù tuẫn tiết.
Năm 1666, vì cảm kích trước lòng trung nghĩa của Vũ Duệ với nhà Lê, vua Lê Huyền Tông đã sức cho dân làng lập đền thờ. Vua lại tặng lá cờ thêu hai chữ "Tiết Nghĩa" treo ở đền thờ ông.
Ông người làng Trình Xá, huyện Sơn Vị, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), đỗ Trạng nguyên niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490) dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Tương truyền, lúc lên bốn, ông bị bệnh đậu mùa, nặng đến nỗi lả người đi. Bố mẹ tưởng ông đã chết, nhưng nhà nghèo quá phải bó thây ông bằng chiếc chiếu buồm, đem bỏ ở ngoài hè vì sợ lây, định sáng sớm mai sẽ đưa đi chôn. Nhà có nuôi một con chó rất khôn, nó cứ ngồi canh suốt đêm bên cạnh bó chiếu. Đến sáng, người nhà định ra lấy xác mang đi thì con chó nhảy lồng lên rất dữ tợn. Hai, ba lần đều như thế. Người nhà không hiểu ra sao, đành chờ. Đến chiều hôm đó, trời bỗng đổ cơn mưa, tự nhiên nghe trong bó chiếu có tiếng khóc ú ớ, thì ra cậu bé đã tỉnh lại. Bố mẹ chạy ra mang con vào nhà thì con chó vẫy đuôi mừng rỡ và để cho mang vào.
Thuở nhỏ, Vũ Duệ có tên là Vũ Nghĩa Chí. Cậu bé có điều thiệt thòi hơn các bạn đồng trang lứa, vì nhà nghèo quá mà không được đi học. Hàng ngày cậu bé Nghĩa Chí phải trông em, lo cơm nước để bố mẹ đi làm ngoài đồng. Nhưng nhờ trời, cậu bé rất sáng dạ lại ham học. Như đã thành lệ, mỗi buổi sáng khi thầy đồ bắt đầu dậy chữ cũng là lúc Nghĩa Chí cõng em đứng ở ngoài hiên, chăm chú nghe thầy giảng bài.
Thời gian thấm thoắt trôi, cũng đã gần một năm rồi, cậu học trò nhỏ vẫn rất mực chuyên cần, ngày ngày chăm chỉ tới lớp học lỏm.
Thầy đồ thấy Nghĩa Chí nhà nghèo lại ham học như thế, thì có phần mến phục trong lòng. Một hôm, thầy nảy ra ý muốn thử tài cậu bé. Nếu cậu bé thực sự thông minh, thầy sẽ tìm cách giúp.
Thầy đồ đặt ra một câu hỏi. Cả lớp nhìn nhau, câu hỏi hóc búa quá, không ai trả lời được. Lúc này thầy mới nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi Vũ Nghĩa Chí đang cõng em, bắt gặp ánh mắt sáng ngời của cậu học trò nhỏ đang nhìn lại mình, ý chừng cậu muốn trả lời câu hỏi ấy thay cho các bạn trong lớp.
Thấy vậy, thầy đồ hỏi:
- Liệu con có trả lời được câu hỏi của ta không?
- Dạ, thưa thầy được ạ! - Cậu bé trả lời.
- Con thử nói xem nào! - Thầy ôn tồn bảo em.
Được phép thầy, Nghĩa Chí đáp trôi chảy, mạch lạc, đâu ra đấy. Thầy đồ gật đầu tán thưởng. Cả lớp kinh ngạc thán phục. Thầy ra tận nơi Chí đứng, xoa đầu em hỏi mới biết tên em là Nghĩa Chí. Thầy nói:
- Cái tên Nghĩa Chí tuy hay, nhưng vẫn chưa xứng với tài năng của con. Nay thầy muốn đổi cho con cái tên mới là Duệ. Duệ có nghĩa là sáng suốt, hiểu biết sâu xa. Liệ có được không?
Nghĩa Chí gật đầu ưng thuận, rồi vái tạ thầy ra về. Từ đó em có tên là Vũ Duệ.
Ngay sau buổi học đó, thầy đồ đến tận nhà cậu bé, khuyên nhủ cha mẹ cho Duệ đi học.
Thế là Vũ Duệ đến lớp học chính thức, như bao học trò khác, bên thầy, bên bạn. Chỉ vài tháng sau, Vũ Duệ đã là học trò giỏi nhất lớp.
Vũ Duệ không những học giỏi mà sự thông minh, láu lỉnh cũng hiếm ai bằng.
Có lần, bố mẹ đi vắng, có người cùng làng đến đòi nợ, hỏi:
- Bố mẹ cháu đi đâu?
Vũ Duệ đáp:
- Bố cháu đi chém cây sống, trồng cây chết. Mẹ cháu đi bán gió, mua que.
Người nọ lạ lắm, suy nghĩ mãi vẫn không nghĩ ra bố mẹ cháu bé đi đâu. Căn vặn mãi Duệ chỉ cười mà không đáp. Người khách không nhịn nổi tò mò mới dỗ dành.
- Cháu cứ nói thật đi, ta sẽ xóa nợ cho.
Nghe thế, Duệ chạy tót ra vườn lấy một cục đất sét bảo khách in tay vào để làm tin. Sau đó cậu mới giải thích:
- Cha cháu đi nhổ mạ, cấy lúa. Đấy chẳng phải chém cây sống, trồng cây chết là gì! Còn mẹ cháu đi bán quạt, rồi mua tre về làm quạt, thế là đi bán gió mua que.
Người khách chịu Vũ Duệ thông minh, bèn bỏ về. Hôm sau nữa lại đến đòi nợ. Duệ đưa hòn đất có dấu tay in, nói:
- Hôm trước ông điểm chỉ vào đây rồi, còn đòi gì nữa.
Người khách ngẩn người ra, đành thôi không đòi nợ nữa, còn món nợ thì để giúp Vũ Duệ mua sách vở học.
Vũ Duệ có trí nhớ kỳ lạ, các sách chỉ cần đọc qua một lần là thuộc. Vì nghèo khổ quá, nhà thủng dột tứ tung, nên ông hay ra ngoài cầu lợp ở đầu làng để học cho khỏi ướt. Một hôm trời rét, ông nằm co ro trên sàn cầu, chợt có quan Thái phó đi qua, ông cứ nằm ì không dạy. Quan thét mắng, cho thế là người vô lễ và ngông cuồng, sai lính đến hỏi tội.
Vũ Duệ nói với người lính:
- Chú bẩm hộ với quan tôi không phải là cuồng mà là học trò nghèo, có biết quan đi qua, nhưng rét quá co quắp cả chân tay, không dậy được.
Quan nói:
- Đã khoe là học trò thì ta ra cho một bài thơ, lấy nằm co làm đề, lấy cuồng làm vần, hễ không làm được, ta sẽ đánh đòn.
Vũ Duệ vẫn không thèm dạy, cứ nằm mà đọc luôn:
Ba gian cầu trống khổ mình ông
Rét quá nằm co há phải cuồng.
Cá lớn nép vây miền Bắc Hải
Rồng thiêng uốn khúc chốn Nam Dương
Một niềm trung ái lo cho trọn
Hai chữ công danh níu chằng buông
Có khuất bao nhiêu thời có duỗi.
Sang xuân ấm áp hãy ra tuồng.
Quan Thái phó thấy bài thơ có khí phách, thưởng cho ông rất hậu và tỏ ý kính trọng.
Năm Canh Tuất (1490), đời vua Lê Thánh Tông, Vũ Duệ dự thi, đỗ Trạng nguyên. Trong buổi tiệc vua ban để trọng đãi các vị tân khoa, thấy Vũ Duệ đối đáp thông minh, lại hiểu rộng biết nhiều. Vua vui mừng nói với cận thần tả hữu rằng:
- Nếu quốc gia có sự gì, đã có người này gánh vác.
Ban đầu, Vũ Duệ được bổ làm Tham chính trấn Hải Dương. Đến đời vua Lê Chiêu Tông, ông được thăng chức Thượng thư bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ, tước trình khê hầu.
Vũ Duệ tính cương trực, thẳng thắn, nên vua Lê rất tin dùng, các quan trong triều ai cũng kính nể.
Khi nhà Lê suy vong, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, dụ ông ra làm quan, ông chửi mắng thậm tệ, rồi đeo ấn tín nhảy xuống cửa Thần Phù tuẫn tiết.
Năm 1666, vì cảm kích trước lòng trung nghĩa của Vũ Duệ với nhà Lê, vua Lê Huyền Tông đã sức cho dân làng lập đền thờ. Vua lại tặng lá cờ thêu hai chữ "Tiết Nghĩa" treo ở đền thờ ông.