Top 8 Bài văn cảm nhận về đoạn trích "Con chó bấc" hay nhất
"Tiếng gọi của hoang dã" là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Mỹ Jack London, được so sánh với văn hào Nga M. Gorki. Tác phẩm này khác biệt ở chỗ nhân vật ... xem thêm...chính không phải là con người mà là chú chó Bấc. Bấc đã được thuần hóa và sống chung với con người trong một thời gian dài, đôi khi còn được nuông chiều. Dưới đây là những đoạn văn hay cảm nhận về đoạn trích "Con chó bấc"
-
Trong sáng tạo văn chương, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật là một bước tiến lớn trong lịch sử văn học. Khắc họa tâm lí của con người đã khó, ở đây, khắc họa tâm lí của một con vật có lẽ còn gian truân gấp bội lần. “Tiếng gọi nơi hoang dã” viết về đề tài động vật-vốn đã không mấy xa lạ trong nền văn học thế giới. Tuy vậy, tác phẩm vẫn là một nét sáng tạo độc đáo của Jack London khi dựng lên hình ảnh chú chó Bấc thật sinh động, gần gũi với mọi biến cố và những tình cảm, cảm xúc giống như con người. Đoạn trích “Con chó Bấc” thuộc chương 6- “Tình yêu thương đối với con người”.
“Con chó Bấc” là một trong những đoạn văn thành công nhất tác phẩm mặc dù nó không có nhiều chi tiết, sự kiện hấp dẫn, gay cấn, chỉ tập trung miêu tả những tình cảm giữa người với chó và giữa chó với người. Trong đoạn trích, ta thật cảm động biết bao trước tình yêu thương loài vật của Thoóc-tơn, mà đặc biệt là đối với Bấc. Trước hết, Thoóc-tơn là một ông chủ lí tưởng đối với bất kì loài vật nào. Là một người có bản tính lương thiện, tấm lòng nhân hậu hiếm có, anh chẳng những đã mua lại Bấc mà còn đối xử với Bấc tận tình, chăm sóc cho Bấc đến tận khi anh qua đời. Thoóc-tơn đối xử với những con chó kéo xe của anh “như thể chúng là con cái của anh vậy”.
Trong suy nghĩ, tình cảm của mình, anh không xem chó như một loài vật, một công cụ chỉ biết răm rắp nghe lời. Đối với anh, chó là bạn bè, là tri kỉ, là người thân, cùng anh làm việc, chịu đựng gian khổ để đạt được mục đích cuối cùng. Thoóc-tơn được đặt trong mối liên hệ so sánh với những ông chủ khác của Bấc để làm nổi bật, ngời sáng lên những phẩm chất tốt đẹp của anh. Thẩm phán Mi-lơ chăm sóc Bấc xuất phát từ nghĩa vụ và trách nhiệm. Những người tìm vàng xem Bấc là công cụ đắc lực phục vụ cho mục đích kinh doanh, lợi nhuận của họ. Còn với Thoóc-tơn thì sao? Anh chào hỏi thân mật, nói lời vui vẻ, trò chuyện tầm phào với chó, khe khẽ thốt lên tiếng rủa rủ rỉ, âu yếm như cha mẹ nựng con chứ không phải tiếng quát tức giận. Đặc biệt là khi anh thốt lên “Trời đất! Đằng ấy hầu như biết nói” thể hiện tình yêu thương nồng nàn vô hạn của một ông chủ đối với con chó của mình. Những cử chỉ yêu thương ấy tuy bình dị nhưng lại có một sức hấp dẫn đặc biệt. Tình cảm yêu thương của Thoóc-tơn dành cho Bấc hoàn toàn đã vượt lên mối quan hệ chủ- tớ thông thường.
Bản thân Bấc là một con chó thông minh, nó hiểu tất cả những cử chỉ âu yếm, yêu thương của Thoóc-tơn và đáp lại cũng không kém phần cuồng nhiệt. Đối với gia đình thẩm phán Mi-lơ, đó tình bạn trịnh trọng và đường hoàng, còn với Thoóc-tơn, Bấc chưa bao giờ cảm thấy một "tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt" như lúc này. Tình cảm của Bấc dành cho chủ đa dạng, phong phú mà cũng vô cùng sâu sắc. Nó có cách thể hiện tình yêu rất đặc biệt: ép hai hàm răng vào tay chủ, không vồ vập, săn đón như những con chó khác, Bấc chỉ lặng lẽ quan sát, tôn thờ chủ theo cách rất riêng của nó. Ánh mắt của nó đã nói lên tất cả tình yêu thương, tấm lòng biết ơn, sự tôn thờ, kính ngưỡng và thần phục tuyệt đối. Càng yêu chủ bao nhiêu, nó lại càng sợ phải xa chủ bấy nhiêu, chi tiết nó “trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ...” đủ cho thấy nỗi sợ ám ảnh bị mất Thoóc-tơn của Bấc. Bấc quả là có tâm hồn hơn hẳn những con chó khác, và tất nhiên, chỉ có Thoóc-tơn mới khơi lên được những tình cảm này trong nó.
Bằng biện pháp nhân hóa, tài năng quan sát, vốn hiểu biết và tình cảm đối với loài vật, Jack London đã xây dựng lên hình ảnh chú chó Bấc đầy chân thực, sinh động và hấp dẫn. Qua đoạn trích, ta cũng thấy được tình yêu thương vô bờ bến mà tác giả dành cho những người bạn gần gũi đối với chúng ta.
Nếu như trong các tác phẩm viết về loài vật của La-phông-ten, Tô Hoài, nhà văn để nhân vật-động vật nói tiếng người, xưng tôi thì trong “Tiếng gọi nơi hoang dã”, mà cụ thể ở đây là đoạn trích “Con chó Bấc”, qua nhân vật người kể chuyện, Bấc như có suy nghĩ, có tâm hồn, có cảm xúc giống một con người thực thụ. Đó cũng chính là một trong những yếu tố góp phần làm nên thành công của tác phẩm, để hình ảnh chú chó Bấc sống mãi trong lòng người đọc.
-
Như được đi theo đoàn người đi đào vàng lên vùng A-lax-ca, Bắc cực mênh mông tuyết trắng, với những cảnh, những con người với bao ấn tượng mạnh mẽ, dữ dội không cùng. Đặc biệt những trang viết về con chó Bấc, viết về mối quan hệ cảm động giữa Giôn Thoóc-tơn với con chó Bấc là hay nhất, cảm động nhất. Nhà văn không miêu tả ngoại hình, sinh hoạt bản năng của con chó Bấc mà đi sâu vào thế giới bên trong - thế giới tâm hồn của con vật, hình như mang nặng tình người hiếm có, cảm động. Đoạn văn "Con chó Bấc" là một đoạn văn ngọt ngào chất thơ khi nói về một tình thương giao cảm thắm thiết giữa người với vật nuôi.
Có lẽ vì đã trải qua những tháng ngày kéo xe trượt tuyết nặng nhọc, gặp phải những ông chủ độc ác, con chó Bấc mới hiểu sâu sắc thế nào là tình người. Miếng ăn của nó kiếm được là roi vọt, là sự bố thí của những con người tàn nhẫn và đang khát vàng. Cho nên từ ngày con chó Bấc được Giôn Thoóc-tơn cứu sống, nó mới được sống trong "một tình yêu thương thực sự và nồng nàn lần đầu tiên phát sinh ra bên trong nó". Nó cũng đã một lần ít ỏi được hưởng hương vị của tình thương khi chưa bị bắt cóc lên bắc cực, đó là những ngày sống trong nhà ông Thẩm phán Mi-lơ giữa thung lũng Xan-ta Cla-ra mơn man ánh nắng. Con Bấc chẳng bao giờ quên những ngày tháng êm đẹp và ngắn ngủi ấy. Những lần đi săn, đi lang thang với mấy cậu con trai ông Thẩm "tình cảm của Bấc cũng chỉ là thứ tình cảm làm ăn cùng hội cùng phường với các cháu nhỏ ông Thẩm"đó là một thứ trách nhiệm hộ vệ trong niềm kiêu hãnh tự cao tự đại". Còn với ông Thẩm "là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng".
Lân-đơn đã có một cách nói rất đặc sắc về mối quan hệ của Bấc với những thành viên trong gia đình Thẩm phán Mi-lơ. Bấc chỉ là một con chó săn, một con chó giữ nhà, và là một con chó cảnh. Thế thôi! Còn từ ngày nó được sống với Giôn Thoóc-tơn, nỏ được ông chủ, ông bạn mới "khơi dậy" lên trong lòng Bấc những tình thương yêu, những tình cảm chưa hề được hưởng, chưa hề có: "sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt...".
Tình cảm vui, buồn, thương yêu, giận dữ cũng tựa như dòng nước có độ tràn, có hẹp và mênh mông, có sức chảy nhanh, chậm. Mọi dòng nước đều có nguồn cũng như mọi tình cảm đều có nguồn. Cái nguồn tình cảm sâu xa mà Bấc tìm thấy ở Giôn Thoóc-tơn là anh đã "cứu sống nó", anh là "ông chủ lý tưởng". Những người khác nuôi Bấc là xuất phát từ nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh để Bấc đi săn, giữ nhà, là vật nuôi làm cảnh... và để kéo xe trượt tuyết đi tìm vàng. Còn Giôn Thoóc-tơn đã coi Bấc là "Con cái của anh" vậy. Cái nguồn gốc ấy mới sâu sắc và cao quý, vì nó đã vượt hẳn mối quan hệ con vật với con người, đi tới mối quan hệ của tình thương, tình người. Mối quan hệ tình cảm ấy, con Bấc đã cảm nhận được bằng trực giác, bằng cảm xúc, bằng sự tinh nhạy, khôn ngoan mà chỉ có những con chó như con Bấc mới có Giôn Thoóc-tơn "đã chăm sóc", lúc là một lời chào "hớn hở", lúc là một cử chỉ "thân ái", lúc là anh ngồi xuống rất lâu "nói chuyện" với Bấc mà cả hai đều tương thân, đều đồng cảm, đều "thích thú". Giôn Thoóc-tơn "có thói quen túm chặt lấy đầu Bấc rồi đưa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đảo qua đảo lại, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mà đối với nó lại là những lời nói nựng âu yếm".
Với con Bấc, đó là những giây phút thần tiên mà chỉ có Giôn Thoóc-tơn mới trao cho nó trong sự vuốt ve, yêu thương. Lúc đó, con Bấc cảm thấy "không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ", "tiếng rủa rủ rỉ bên tai". Sự vui sướng của Bấc đến cực độ, có lúc nó cảm thấy "quà tim mình nhảy tung ra khỏi lồng ngực" .
-
Lân-đơn đã lấy tình thương để tả loài vật. Ông đã miêu tả sống động, hấp dẫn hình ảnh con chó mang tình người, sống tình nghĩa thủy chung như con người. Bằng nghệ thuật tinh tế, biểu cảm trong miêu tả loài vật, Giắc Lân-đơn đã cho chúng ta thấy tình cảm yêu thương sâu sắc của ông đối với loài vật.
Đọc Tiếng gọi nơi hoang dã của Lân-đơn, ta như được đi theo đoàn người đi đào vàng lên vùng A-la-xca, bắc cực mênh mông tuyết trắng, với những cảnh, những con người với bao ấn tượng mạnh mẽ, dữ dội khôn cùng. Đặc biệt những trang viết về con chó Bấc, viết về mối quan hệ cảm động giữa Giôn Thoóc-tơn với con chó Bấc là hay nhất, cảm động nhất. Nhà văn không miêu tả ngoại hình, sinh hoạt bản năng của con chó Bấc mà đi sâu vào thế giới bên trong - thế giới tâm hồn - của con vật, hình như mang nặng tình người hiếm có, cảm động. Đoạn văn Con chó Bấc là một đoạn văn ngọt ngào chất thơ khi nói về một tình thương giao cảm thắm thiết giữa người với vật nuôi.
Có lẽ vì đã trải qua những tháng ngày kéo xe trượt tuyết nặng nhọc, gặp phải những ông chủ độc ác, con chó Bấc mới hiểu sâu sắc thế nào là tình người. Miếng ăn của nó kiếm được là roi vọt, là sự bố thí của những con người tàn nhẫn và đang khát vàng. Cho nên từ ngày con chó Bấc được Giôn Thoóc-tơn cứu sống, nó mới được sống trong “một tình yêu thương thực sự và nồng nàn lần đầu tiên phát sinh ra bên trong nó”. Nó cũng đã một lần ít ỏi được hưởng hương vị của tình thương khi chưa bị bắt cóc lên bắc cực, đó là những ngày sống trong nhà ông Thẩm phán Mi-lơ giữa thung lũng Xan-ta Cla-ra mơn man ánh nắng. Con Bấc chẳng bao giờ quên những ngày tháng êm đẹp và ngắn ngủi ấy. Những lần đi săn, đi lang thang với mấy cậu con trai ông Thẩm phán “ tình cảm của Bấc cũng chỉ là thứ tình cảm làm ăn cùng hội cùng phường”. Với các cháu nhỏ ông Thẩm "đó là một thứ trách nhiệm hộ vệ trong niềm kiêu hãnh tự cao tự đại”. Còn với ông Thẩm phán “là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng".
Lân-đơn đã có một cách nói rất đặc sắc về mối quan hệ của Bấc với những thành viên trong gia đình Thẩm phán Mi-lơ. Bấc chỉ là một con chó săn, một con chó giữ nhà, và là một con chó cảnh. Thế thôi! Còn từ ngày nó được sống với Giôn Thoóc-tơn, nó được ông chủ, ông bạn mới "khơi dậy" lên trong lòng Bấc những tình thương yêu, những tình cảm chưa hề được hưởng, chưa hề có: “sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt...".
Tình cảm vui, buồn, thương yêu, giận dữ cũng tựa như dòng nước có độ tràn, có hẹp và mênh mông, có sức chảy nhanh, chậm. Mọi dòng nước đều có nguồn cũng như mọi tình cảm đều có nguồn. Cái nguồn tình cảm sâu xa mà Bấc tìm thấy ở Giôn Thoóc-tơn là anh đã “cứu sống nó”, anh là "ông chủ lý tưởng”. Những người khác nuôi Bấc là xuất phát từ nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh để Bấc đi săn, giữ nhà, là vật nuôi làm cảnh... và để kéo xe trượt tuyết đi tìm vàng. Còn Giôn Thoóc-tơn đã coi Bấc là “con cái của anh” vậy. Cái nguồn gốc ấy mới sâu sắc và cao quý, vì nó đã vượt hẳn mối quan hệ con vật với con người, đi tới mối quan hệ của tình thương, tình người. Mối quan hệ tình cảm ấy, con Bấc đã cảm nhận được bằng trực giác, bằng cảm xúc, bằng sự tinh nhạy, khôn ngoan mà chỉ có những con chó như con Bấc mới có.
Giôn Thoóc-tơn “đã chăm sóc”, lúc là một lời chào "hớn hở”, lúc là một cử chỉ "thân ái”, lúc là anh ngồi xuống rất lâu “nói chuyện” với Bấc mà cả hai đều tương thân, đều đồng cảm, đều “thích thú”. Giôn Thoóc-tơn "có thói quen túm chặt lấy đầu Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đẩy tới đẩy lui, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mà đối với Bấc lại là những lời nói nựng âu yếm”. Với con Bấc, đó là những giây phút thần tiên mà chỉ có Giôn Thoóc-tơn mới trao cho nó trong sự vuốt ve, yêu thương. Lúc đó, con Bấc cảm thấy "không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ”, “tiếng rủa rủ rỉ bên tai”. Sự vui sướng của Bấc đến cực độ, có lúc nó cảm thấy “quả tim mình nhảy tung ra khỏi lồng ngực".
Tình yêu thương giữa người và vật nuôi cũng có “cho” có “nhận" trong mối giao cảm, giao hòa, tương tác. Đây là một đoạn văn tuyệt bút nói về mối quan hệ sâu sắc, đẹp đẽ và hiếm có ấy: “Khi được buông ra, nó bật vùng dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động; những lúc ấy, Giôn Thoóc-tơn lại như muốn kêu lên, trân trọng: “ Tròi đất! Đằng ấy hầu như biết nói đấy!".
Bấc như một “đứa trẻ” giàu tình cảm, nó có một kiểu biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta. Nó hay cắn vào tay Giôn Thoóc-tơn “ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu’’. Và chỉ có anh mới cảm nhận một cách hạnh phúc rằng “cái cắn vờ ấy là cử chỉ vuốt ve”. Lân-đơn với tình yêu thương loài vật, với cái tài quan sát và diễn tả đặc biệt ông đã phát hiện ra, đã “sống" với những rung động, với những biến thái tâm tình, ông đã “hiểu được” ngôn ngữ riêng của một vật nuôi đã được thuần dưỡng và gắn bó lâu đời với con người, một vật nuôi khôn nhất, trung thành nhất và giàu tình cảm nhất, để nói lên một cách xúc động về mối quan hệ “sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến mức cuồng nhiệt” giữa Giôn Thoóc-tơn và con Bấc.
Nếu như phần đầu, nhà văn đã lấy mối quan hệ giữa con Bấc với gia đình Thẩm phán Mi-lơ để làm nổi bật mối tình yêu thương đặc biệt giữa con Bấc với Giôn Thoóc-tơn, thì ở phần giữa ông lại so sánh cách biểu hiện tình cảm của con Bấc và những con chó khác đối với chủ, mỗi con một vẻ. “Xơ-kit có thói quen thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay của Thoóc-tơn rồi hích hích mãi cho đến khi được vỗ về.. Ních thì... tựa cái đầu to lớn của nó lên đầu gối của Thoóc-tơn". Còn Bấc thì diễn đạt tình thương yêu bằng "sự tôn thờ”, sung sướng đến “cuồng lên” khi dược Thoóc-tơn “vuốt ve" hoặc “nói chuyện" với nó...
Thế giới loài vật được Lân-đơn nhìn nhận và miêu tả như thế giới con người tràn ngập tình yêu thương và biết sống trong sự giao cảm đầy hạnh phúc! Con Bấc “thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hằng giờ, mắt háo hức, tỉnh táo, ngước nhìn lên mặt anh, chăm chú, xem xét, hết sức quan tâm, theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên nét mặt”. Có lúc con Bấc ngắm nhìn chủ từ phía sau, và bằng linh cảm, giao cảm giữa người và chó, anh quay đầu nhìn lại, đôi mắt Thoóc-tơn "tỏa rạng tình cảm tự đáy lòng ”, còn “tình cảm của Bấc cũng ngời ánh lên qua đôi mắt nó”. Cách ngồi, cái ngước nhìn, cái lắng nghe và theo dõi cặp mắt và ánh mắt... của con chó Bấc hiện lên trên trang văn như một linh hồn người, trong biểu cảm có chiều sâu lí trí, trong tâm hồn có cả chiều cao của tư duy. Con chó Bấc không chỉ có tình yêu thương mà còn có cả những suy nghĩ sống bên “ông chủ lí tưởng”.
Con chó Bấc cũng có nỗi lo. Cuộc đời ba chìm bảy nổi đã qua, luôn luôn ám ảnh nó, “nó không muốn rời Thoóc-tơn một bước”. Nó luôn luôn sợ, Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời của nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây. Cả trong giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Đêm nào nó cũng tỉnh giấc giữa chừng, rồi trườn qua giá lạnh đến đứng ở mép lều "lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ”. Chi tiết ấy là một nét vẽ cảm động gợi lên trong lòng ta nhiều cảm thương xót xa. À ra thế đó, không chỉ riêng ở con người, mà cả những vật nuôi như con chó Bấc tinh khôn, tình cảm này cũng sợ ly biệt! Nhà văn Lân-đơn đã nói được điều đó và diễn đạt bằng những hình ảnh giàu giá trị nhân bản.
Tóm lại, Lân-đơn đã lấy tình thương để tả loài vật. Ông đã miêu tả sống động, hấp dẫn hình ảnh con chó mang tình người, sống tình nghĩa thủy chung như con người. Bằng nghệ thuật tinh tế, biểu cảm trong miêu tả loài vật, Giắc Lân-đơn đã cho chúng ta thấy tình cảm yêu thương sâu sắc của ông đối với loài vật.
-
Mỗi chúng ta đều không khỏi xúc động trước sự gắn bó của chàng trai Santiago và bầy cừu của mình. Một lần nữa, tình cảm giữa người và loài vật còn được nhà văn Jack London khắc họa đậm nét qua đoạn trích “ Con chó Bấc” trích trong tiểu thuyết “ The call of the wild”( “ Tiếng gọi nơi hoang dã”). Ta cũng không khỏi ngỡ ngàng trước sự thông minh của chú chó.
Cuộc gặp gỡ giữa Bấc và Giôn Thooc-ton là một điều may mắn với nó, bởi đó là “ một ông chủ lý tưởng”. Khi nhìn lại những bước ngoặt cuộc đời mình, nó chưa thấy người chủ nào yêu thương mình thực sự như Thooc-ton. Với ông Thẩm, “ đó là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng”, còn với những đứa nhỏ của ông “ là trách nhiệm”, cho tới Pe-ron, Pho-rang-xoa, E-cot vì “ nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh”… Họ chỉ lướt qua số mệnh của nó như một cơn gió mà chẳng để lại những lưu luyến. Thooc-ton không chỉ là ân nhân của Bấc khi cưu mang nó mà còn dành tình thương yêu cho chó như là con cái của anh.Cách anh đối xử với đàn chó thật thân thiết: lời chào hỏi, nói chuyện thân mật…
Những lúc trò chuyện “ tầm phào” ấy cũng giúp ta cảm nhận được, tình cảm chân thành, giản dị của người chủ tới mỗi con vật cưng. Bằng một loạt động từ, nhà văn tái hiện một cách chi tiết tình cảm nồng nàn của Thooc-ton với Bấc: “ túm chặt lấy đầu, dựa đầu anh vào đầu nó, đẩy tới đẩy lui, khẽ thốt lên những tiếng rủa”. Tình thương yêu được bộc lộ qua hành động cụ thể, không chút vụ lợi mà xuất phát từ trái tim nhân hậu. Ông chủ ấy trân trọng, muốn chở che, đùm bọc những chú chó. Có lẽ Thooc-ton lắng nghe tiếng nói của Bấc khi anh muốn kêu lên: “ Đằng ấy hầu như biết nói đấy”. Tấm lòng của anh là giai điệu của tình yêu níu giữ bản chất lương thiện nó, là sợi dây cương vững vàng để con vật không nghe theo tiếng gọi của bản năng.
Nhà văn Jack Lon-don có biệt tài đi sâu vào khắc họa thế giới của loài vật. Đó không chỉ cuộc sống hoang dã của bầy sói ở Bắc cực trong tiểu thuyết “ Nanh trắng” mà đoạn trích này, tác giả còn xây dựng hình ảnh Bấc là con chó tinh khôn. Nó thực sự được thuần hóa khi sống trong vòng tay của Thooc-ton. Cách nó đáp trả tình cảm của chủ những lần vui đùa thật độc đáo. “Há miệng ra cắn lấy bàn tay, ép răng xuống thật mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu”. Cách đùa giỡn đó được Thoo-ton bằng lòng coi như cử chỉ vuốt ve. Giữa họ có một mối giao cảm mạnh mẽ để hiểu tình cảm của đối phương, cái nhìn của chú chó có sức mạnh kì diệu khi hai đôi mắt gặp nhau đều ngời lên tình cảm tự đáy lòng.
Tâm trạng của Bấc khi đón nhận sự chăm sóc của ông chủ cũng cho thấy nó là con vật nhanh nhẹn, đáng yêu. “Vùng dậy trên hai chân,miệng cười, mắt long lanh”, nó hiểu được tình cảm tuyệt vời của chủ, một dòng cảm xúc mãnh liệt trào dâng trong lòng nó: “ không có gì vui sướng, tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi cơ thể vì ngây ngất”. Khoảnh khắc ấy là giây phút nó thực được sống. Ngòi bút tinh tế của tác giả đi sâu vào thế giới nội tâm của chú chó như lí giải sự khôn ngoan của nó. Biện pháp nhân hóa được sử dụng khéo léo giúp ta cảm nhận được âm vang tâm hồn sâu thẳm của Bấc. Bao đêm nó đắm chìm trong suy nghĩ miên man, “việc thay đổi chủ xoành xoạch…làm nảy sinh trong lòng nó nỗi lo sợ là không người chủ nào có thể gắn bó lâu dài”, sợ Thooc-ton cũng biến khỏi cuộc đời nó”. Suy ngẫm của con vật cho thấy nó đã “từng trải” và dù mạnh mẽ thế nào trong kéo xe trượt tuyết, Bấc cũng mong muốn nhận được sự săn sóc của người chủ thương yêu nó thật lòng.
Không chỉ con người mới có những sợi dây tình cảm phức tạp mà loài vật cũng tiếng nói cảm xúc riêng, Jack Lon-don thấu hiểu điều đó.Với những nỗi niềm suy tư khiến Bấc có những cử chỉ khác biệt so với những chú chó khác. Nó luôn bị nỗi lo sợ xa cách ám ảnh nên có khi sực tỉnh “ vội vùng dậy không ngủ nữa, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ…”. Ý nghĩ đó chi phối tình thương yêu của nó trở thành lòng “ tôn thờ”, nó không săn đón những cử chỉ của Thooc-ton mà dè chừng. Một chuỗi động từ tái hiện chính xác sự lanh lợi, khôn khéo của Bấc: “nằm phục, ngước nhìn lên mặt anh, chăm chú xem xét, quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua…”. Trí tưởng tượng táo bạo của nhà văn giúp hình ảnh Bấc hiện lên sinh động qua trang viết. Đó quả là chú chó lanh lợi, trung thành.
Ta từng ấn tượng sâu sắc với tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu kí” của nhà văn Tô Hoài được chứng kiến cuộc hành trình thú vị của chú dế Mèn với những quan sát tinh tế. Giờ đây, tâm trí ta cũng không khỏi xúc động trước tình yêu thương loài vật của nhà văn Mĩ Jack Lon-don trong đoạn trích “ Con chó Bấc” khi tác giả lách ngòi bút đậm tô một cách sáng tạo “ tâm tư tình cảm” của chú chó Bấc.
-
Tiếng gọi nơi hoang dã (1903) là một trong những tác phẩm nổi tiếng của G. Lân-đân. Truyện là kết qủa của những chuyến đi cùng với cùng với các nhóm tìm vàng lên tận miền bắc Ca-na-đa gần Bắc cực. Tiếng gọi nơi hoang dã kể về số phận con chó Bấc. Bấc là một chú chó nhà khoẻ mạnh tinh khôn. Nó bị bắt cóc đưa lên vùng Bắc cực để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc đã phải qua tay nhiều ông chủ tàn bạo, độc ác. Chỉ có Giôn Thoóc-tơn là ông chủ duy nhất thương yêu nó và cảm hoá được nó. Nhóm tìm vàng của Thoóc-tơn cùng lũ chó tiến sâu mãi vào núi rừng miền Bắc hoang vu, lạnh lẽo. Sống giữa thiên nhiên hoang dại, khắc nghiệt, tiếng gọi của rừng thẳm, của tổ tiên hoang dã cứ thức dậy trong lòng Bấc. Dần dần nó đã trở thành một con chó to lớn hung dữ, ranh ma, chỉ thờ phụng riêng mình Thoóc-tơn.
Nhưng rồi Thoóc-tơn và cả nhóm chết thê thảm trong rừng. Không cò gì có thể níu giữ Bấc với con người, nó mãi mãi đi theo tiếng gọi hoang dã của bầy sói rừng và trở thành một con sói thần khủng khiếp. Truyện hấp dẫn người đọc bởi cảnh thiên nhiên miền Bắc hoang dã, khắc nghiệt, dữ dội, đầy bí ẩn, bởi "xã hội" những người đi tìm vận may ở vùng đất bốn mùa tuyết phủ. Một xã hội có cả người mạnh mẽ, tự tin, dũng mãnh và nhân từ như Thoóc-tơn, có cả những kẻ tham lam, ngu xuẩn và độc ác như Han. Nhưng truyện còn đặc biệt hấp dẫn bởi những trang miêu tả đời sống tình cảm loài chó vừa sát thực, vừa sinh động. Do đâu mà tác giả có được những trang miêu tả đời sống "tâm hồn" con chó Bấc như đoạn trích trong sách giáo khoa Ngữ văn 9 ? Chính là do khả năng quan sát tinh tế của nhà văn. G. Lân-đân không nhân cách hoá các con chó của ông. Ông chỉ miêu tả chúng một cách chính xác, tinh tế, tỉ mỉ. Những biểu hiện tình cảm của các con chó trong đoạn trích là của chung loài chó, nhưng nhà văn, với tài quan sát của mình vẫn thấy chúng khác nhau. Xơ-kít, Ních, Bấc đều yêu mến, trung thành với Thoóc-tơn, nhưng mỗi con có một biểu hiện riêng. Cô ả Xơ-kít thì thích được chủ vuốt ve, âu yếm. Nó "có thói quen thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay của Thoóc-tơn rồi hích, hích mãi cho đên khi được vỗ về". Còn con Ních biểu lộ tình cảm sôi nổi vụng về hơn "thường chồm lên, tì cái đầu to tướng của cu cậu lên đầu gối Thoóc-tơn.
Đặc biệt, mọi hành động, mọi biểu hiện của Bấc được tác giả quan sát và miêu tả vô cùng tỉ mỉ, tinh tường. Dường như Bấc cũng có các cung bậc tình cảm như con người. Khi thì Bấc "bật dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời...". Ấy là lúc chú ta sung sướng ngây ngất khi được Thoóc-tơn đùa với nó, mắng yêu nó. Cũng có khi Bấc bộc lộ tình cảm như một đứa trẻ con: "Nó thường hay há miệng ra cắn lấy bàn tay Thooc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu". Ấy là những lúc tình cảm của Bấc dành cho Thoóc-tơn phá bờ tràn ra mãnh liệt. Thật thú vị khi ta đọc những câu miêu tả sự tôn thờ của Bấc đối với Thoóc-tơn. Sự miêu tả ấy đúng hành động của loài chó mà chúng ta thường thấy, nhưng không nhận ra hết ý nghĩa của nó. Chỉ đến khi đọc đoạn trích Con chó Bấc chúng ta mới hiểu được "loài khuyển mã chí tình" này : "Nó thường nằm phục ở chân Thoóc- tơn hàng giờ, mắt háo hức tỉnh táo nhìn lên mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc thay đổi trên nét mặt.", và "tình cảm của Bấc ngời lên qua ánh mắt toả rạng ra ngoài". Đặc biệt, tác giả đã hết sức nhạy cảm, tinh tế khi nhận xét : "Bấc không muốn rời Thoóc-tơn một bước. Từ lúc anh ra khỏi lều cho đến lúc anh quay trở về" chính là xuất phát từ nỗi sợ hãi bản năng, như là một dự cảm mơ hồ của Bấc về những nỗi hiểm nguy, về cả cái chết có thể ập đến với ông chủ bất cứ lúc nào.
Đó là nỗi sợ hãi mất Thoóc-tơn (mà sau này là sự thật thê thảm) : "Việc thay thầy đổi chủ luôn xoành xoạch từ khi nó đến vùng đất phương bắc đã làm nảy sinh trong lòng nó nỗi lo sợ là không người chủ nào có thể gắn bó lâu dài. Nó sợ Thooc-tơn lại cũng biến khỏi cuộc đời nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và hai anh chàng người lai Ê-cốt dã đi qua rồi biến mất trước đây. Ngay cả ban đêm, trong các giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Những lúc ấy, nó vội vùng dậy không ngủ nữa, trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ". Đoạn trích Con chó Bấc thể hiện óc quan sát tinh tế, tài miêu tả loài vật của G. Lân-đơn. Nhưng sức hấp dẫn người đọc của đoạn trích, cũng như của toàn bộ tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã không phải là ở đó mà là con chó Bấc kì lạ làm thức dậy trong lòng ta những tình cảm con người trong sáng vị tha. Ai có lòng thương yêu bao dung loài vật chân thành, người đó ít có khả năng làm điều ác, sẽ sống cao đẹp, lương thiện với con người.
-
Trong văn học nghệ thuật, mỗi nhà văn lại tìm cho mình một hướng đi riêng. Ngay cả khi khai thác cùng một đề tài, họ cũng sẽ tìm cho mình một lối viết khác biệt để tạo nên cái tôi riêng. Phần lớn các sáng tác mà chúng ta đã đọc, các nhà văn đều tập trung vào miêu tả tâm lí nhân vật. Để khai thác tâm lí nhân vật không dễ một chút nào. Còn việc khắc họa tâm lí loài vật thì sao? Chắc chắn là khó hơn rất nhiều. Tác giả Jack London không ngại khó, ông đã viết về loài chó, một loài động vật vốn rất gần gũi với con người và khai thác cảm xúc của chúng như chúng ta thấy trong tác phẩm Tiếng gọi nơi hoang dã.
Con chó Bấc là một đoạn trích thuộc chương 6. Đoạn trích này cho chúng ta hiểu một cách rõ nét nhất về con vật này. Không đi sâu vào việc tạo kịch tích cũng không đưa ra quá nhiều chi tiết nhưng Jack London lại tập trung khai thác khía cạnh tình cảm giữa con người và loài chó. Đây có lẽ chính là điểm hấp dẫn tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Nói về tình cảm của con người dành cho loài chó, chúng ta không thể không nhắc đến tình cảm của Thooc-tơn dành cho con chó Bấc. Có lẽ đối với bất kì loài vật nào Thooc-tơn cũng là một ông chủ lí tưởng. Từ sau khi mua lại Bấc, Thooc-tơn đã đối xử với nó một cách chân thành như đối với một người bạn nhỏ. Anh chăm sóc cho con Bấc tới khi nó trút hơi thở cuối cùng. Đối với những con chó kéo xe khác của anh, anh cũng đối xử với chúng như thể chúng là con cái của anh vậy. Với nhiều người, chó là một loài vật trung thành, thông minh và luôn nghe lời chủ nhưng trong mắt của Jack London thì không như vậy.
Chó không chỉ là loài vật giúp đỡ anh trong công việc mà còn là người bạn tri kỉ, người thân cùng anh làm việc và cùng anh vượt qua biết bao nhiêu gian khổ. Đặt Thooc-tơn bên cạnh những ông chủ cũ của Bấc, ta càng thấy hình ảnh của anh đẹp hơn, nổi bật hơn. Nếu như thẩm phán Mi-lơ chăm sóc Bấc xuất phát từ nghĩa vụ và trách nhiệm, những người tìm vàng xem Bấc là công cụ để họ kiếm lời thì Thooc-tơn chăm sóc Bấc như người cha chăm sóc con. Tình cảm anh dành cho Bấc xuất phát từ sự chân thành, có bình dị nhưng lại làm nên sức hấp dẫn.
Sự thông minh của Bấc giúp nó hiểu tất cả những cử chỉ âu yếm và tình yêu thương của Thooc-tơn dành cho nó. Chính vì vậy nó cũng dành cho anh thứ tình cảm vô cùng cuồng nhiệt. Con chó Bấc cũng biết phân biệt và nó đối xử với mỗi người chủ theo một cách khác nhau. Chẳng hạn như với gia đình thẩm phán Mi-lơ, nó đối xử theo một cách trịnh trọng và đường hoàng. Còn với Thooc-tơn thì khác. Nó yêu Thooc-tơn bằng một tình yêu nồng cháy, cuồng nhiệt và tôn thờ. Chưa bao giờ nó dành tình cảm như thế với ai. Cái cách mà Bấc thể hiện tình yêu của mình cũng thật đặc biệt, nó ép 2 hàm răng vào tay chủ. Nếu những con chó khác luôn vồ vập và săn đón chủ thì Bấc chỉ lặng lẽ quan sát và tôn thờ chủ theo cái cách riêng của nó. Nhìn vào trong đôi mắt của Bấc, ta biết nó dành tất cả tinh yêu thương, sự tôn trọng, biết ơn và một sự thuần phục tuyệt đối đối với chủ của mình. Cũng chính tình yêu dành cho chủ đã khiến nó sợ phải xa chủ của mình. Nỗi sợ hãi bị mất Thooc-tơn cứ ám ảnh nó. Điều này thể hiện rõ trong chi tiết nó trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ. Có thể khẳng định một điều, tâm hồn của Bấc khác hoàn toàn so với những con chó khác. Và có lẽ cũng chỉ có Thooc-tơn mới có thể khơi gợi được tâm hồn ấy.
Jack London với tất cả tình cảm của mình dành cho loài vật nhỏ bé này, kết hợp thêm tài năng văn chương, ông đã xây dựng lên một hình ảnh con chó Bấc đầy chân thực, sinh động và hấp dẫn. Tình yêu của Thooc-tơn dành cho Bấc có lẽ cũng chính là tình yêu Jack London dành cho những chú chó, những người bạn thân thiết của con người. Hình ảnh con cho Bấc có lẽ sẽ còn sống mãi trong lòng độc giả.
-
Giắc Lân-đơn (1876 – 1916) là nhà văn Mĩ, tên thật là Giôn Gri-phit Lân-đơn, sinh ở bang San Phran-xi-xcô. Ông trải qua thời kỳ thơ ấu rất vất vả, từng phải làm nhiều nghề để kiếm sống. Lân-đơn bắt đầu sự nghiệp sáng tác bằng những truyện ngắn đăng trên một tờ báo của sinh viên. Thời kì phát triển cao nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là vào đầu thế kỉ XX. Đoạn trích “Con chó Bấc” trích trong cuốn tiểu thuyết “Tiếng gọi nơi hoang dã” kể về Bấc, một con chó bị bắt cóc đưa lên vùng Bắc cực để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc đã qua tay nhiều ông chủ độc ác. Chỉ riêng Giôn Thoóc-tơn là người đã có lòng nhân từ đối với nó. Sau khi Thoóc-tơn chết, nó rời bỏ con người, đi theo tiếng gọi nơi hoang dã và trở thành một con chó hoang. Đoạn trích đã thể hiện được một cách chân thực tình cảm của Thoóc-tơn dành cho Bấc và tình cảm của Bấc dành cho ông chủ của mình.
Tình cảm của Thoóc-tơn với con chó Bấc là tình cảm yêu thương đặc biệt. Trong suy nghĩ cả anh, Bấc không phải là một con chó mà là con người, là đồng loại, là bạn bè, là đứa con thân yêu. Thoóc-tơn không chỉ cứu sống nó mà đối với nó còn là một người cha bởi chỉ có thể là một người cha mới có khả năng chăm sóc “con cái” của mình như vậy, chăm sóc chu đáo, tận tình và không còn giới hạn của sự thương yêu. Ấy là chưa nói cái cách chăm sóc của Thoóc-tơn không giống bất kỳ ai và hơn bất kỳ ai, hơn những cậu con trai của ông Thẩm, hơn những đứa cháu nhỏ của ông Thẩm đã đành, còn hơn cả cách đối xử “trịnh trọng và đường hoàng” của chính ông Thẩm nữa. Anh chào hỏi thân mật, nói lời vui vẻ, trò chuyện tầm phào, làm cho cả hai đều thích thú. Còn thích thú hơn nữa, ấy là cử chỉ thân ái của anh “túm chặt lấy đầu Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu nó”, đẩy tới đẩy lui. Trong những phút cao hứng này, Bấc còn nghe những tiếng rủa rủ rỉ từ miệng anh khe khẽ thốt lên mà nó cho là “những lời nói nựng âu yếm”. Tình cảm của Thoóc-tơn dành cho Bấc thể hiện rõ nhất ở câu nói: “Trời đất ! Đằng ấy hầu như biết nói đấy !”. Đó là một đứa trẻ đang học nói, đang muốn nói bằng một thứ ngôn ngữ riêng mà con người vẫn có khả năng hiểu được. Tất cả từ tấm lòng của Thoóc-tơn với con vật của mình. Tình yêu ấy, qua cảm nghĩ của Bấc được miêu tả bằng biện pháp song hành: lúc thì cử chỉ, khi thì lời nói, mở ra nhiều bình diện và nâng cấp, mỗi lúc một trìu mến, thương yêu lại tăng lên một bậc, tình nghĩa của Thoóc-tơn thật dồi dào không còn gì là giới hạn nữa.
Trước tình cảm chân thành và đặc biệt của Thoóc-tơn, Bấc đã thực sự bị cảm hóa và ‘chinh phục”. Chó vốn là một loài vật không còn xa lạ gì với con người. Có lẽ vì thế mà nhà văn đã có những miêu tả của Xơ-kít, Ních và Bấc rất chân thực. Con chó thường nằm phục dưới chân chủ hàng giờ, mắt háo hức, tỉnh táo, ngước nhìn chủ hàng giờ hoặc có khi nằm ra xa hơn về một bên phía đằng sau để quan sát từng động tác của chủ. Bấc có tình cảm đặc biệt dành cho Thoóc-tơn tương ứng với những gì nó nhận được. Khi gặp được Thoóc-tơn, nó mới lạ lùng và choáng ngợp trước một cái gì lớn lao chợt đến. Ấy là tình thương yêu. Bấc thường “há miệng ra cắn lấy bàn tay Thoóc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu”. Bởi nó hiểu cử chỉ cắn vờ ấy là “cử chỉ vuốt ve”. Tuy vậy, Bấc cũng là một con vật có bản lĩnh, nó biết tiết chế sự “vuốt ve”. Ở điểm này nó khác hẳn với cô ả Xơ-kít có thói quen “thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay” của chủ cho đến khi được vỗ vé, cũng khác với con Ních “thường chồm lên tỳ cái đầu to tướng của cu cậu lên đầu gối Thoóc-tơn”. Không táo tợn mà lặng lẽ, thâm trầm “xem xét” và theo dõi “từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên nét mặt” Thoóc-tơn không phải để ngờ vực hay xét đoán vu vơ mà bằng niềm sung sướng thầm thì với đôi mắt “háo hức, tỉnh táo, ngước nhìn lên” thật là mãn nguyện. Chỉ có điều, hạnh phúc đến với nó vì quá to lớn nên rất đỗi mong manh. Nó sợ đến một lúc nào đó, một ngày nào đó, giấc mơ đẹp đẽ kia chỉ còn là ảo ảnh, sẽ biến mất, sẽ tuột khỏi tầm tay. Đêm đêm, trong nỗi lo sợ mơ hồ, Bấc thường đang ngủ vùng dậy “trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ”. Chỉ có tiếng thở bình yên của chủ mới có thể làm cho thần kinh hoảng loạn của Bấc trở về với trạng thái thăng bằng.
Đoạn trích vừa phản ánh trí tưởng tượng tuyệt vời của nhà văn, vừa nói lên tình yêu thương loài vật của ông. Điều mà ông muốn nhắn gửi tới chúng ta là hãy hết lòng thương yêu loài vật, nhất là những loài vật có nghĩa, có tình.
-
Như được đi theo đoàn người đi đào vàng lên vùng A-lax-ca, Bắc cực mênh mông tuyết trắng, với những cảnh, những con người với bao ấn tượng mạnh mẽ, dữ dội không cùng. Đặc biệt những trang viết về con chó Bấc, viết về mối quan hệ cảm động giữa Giôn Thoóc-tơn với con chó Bấc là hay nhất, cảm động nhất. Nhà văn không miêu tả ngoại hình, sinh hoạt bản năng của con chó Bấc mà đi sâu vào thế giới bên trong - thế giới tâm hồn - của con vật, hình như mang nặng tình người hiếm có, cảm động. Đoạn văn “Con chó Bấc ” là một đoạn văn ngọt ngào chất thơ khi nói về một tình thương giao cảm thắm thiết giữa người với vật nuôi.
Có lẽ vì đã trải qua những tháng ngày kéo xe trượt tuyết nặng nhọc, gặp phải những ông chủ độc ác, con chó Bấc mới hiểu sâu sắc thế nào là tình người. Miếng ăn của nó kiếm được là roi vọt, là sự bố thí của những con người tàn nhẫn và đang khát vàng. Cho nên từ ngày con chó Bấc được Giôn Thoóc-tơn cứu sống, nó mới được sống trong "một tình yêu thương thực sự và nồng nàn lần dầu tiên phát sinh ra bên trong nó". Nó cũng đã một lần ít ỏi được hưởng hương vị của tình thương khi chưa bị bắt cóc lên Bắc cực, đó là những ngày sống trong nhà ông Thẩm phán Mi-lơ giữa thung lũng Xan-ta Cla-ra mơn man ánh nắng. Con Bấc chẳng bao giờ quên những ngày tháng êm đẹp và ngắn ngủi ấy. Những lần đi săn, đi lang thang với mấy cậu con trai ông Thẩm "tình cảm của Bấc cũng chỉ là thứ tình cảm làm ăn cùng hội cùng phường’’. Với các cháu nhỏ ông Thẩm “đó là một thứ trách nhiệm hộ vệ trong niềm kiêu hãnh tự cao tự đại’’. Còn với ông Thẩm “là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng”.
Lơn-đơn đã có một cách nói rất đặc sắc về mối quan hệ của Bấc với những thành viên trong gia đình Thẩm phán Mi-lơ. Bấc chỉ là một con chó săn, một con chó giữ nhà, và là một con chó cảnh. Thế thôi! Còn từ ngày nó được sống với Giôn Thoóc-tơn, nó được ông chủ, ông bạn mới "khơi dậy” lên trong lòng Bấc những tình thương yêu, những tình cảm chưa hề được hưởng, chưa hề có: ‘Sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt...
Tình cảm vui, buồn, thương yêu, giận dữ cũng tựa như dòng nước có độ tràn, có hẹp và mênh mông, có sức chảy nhanh, chậm. Mọi dòng nước đều có nguồn cũng như mọi tình cảm đều có nguồn. Cái nguồn tình cảm sâu xa mà Bấc tìm thấy ở Giôn Thoóc-tơn là anh đã “cứu sống nó ”, anh là “ông chủ lí tưởng ”. Những người khác nuôi Bấc là xuất phát từ nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh để Bấc đi săn, giữ nhà, là vật nuôi làm cảnh... và đổ kéo xe trượt tuyết đi tìm vàng. Còn Giôn Thoóc-tơn đã coi Bấc là “con cái của anh ” vậy. Cái nguồn gốc ấy mới sâu sắc và cao quý làm sao, vì nó đã vượt hẳn mối quan hệ con vật với con người, đi tới mối quan hệ của tình thương, tình người. Mối quan hệ tình cảm ấy, con Bấc đã cảm nhận được bằng trực giác, bằng cảm xúc, bằng sự tinh nhậy, khôn ngoan mà chỉ có những con chó như con Bấc mới có.
Giôn Thoóc-tơn “đã chăm sóc’’, lúc là một lời chào “hớn hở”, lúc là một cử chỉ “thán ái ”, lúc là anh ngồi xuống rất lâu “nói chuyện ” với Bấc mà cả hai đều tương thân, đều đồng cảm, đều “thích thủ Giôn Thoóc-tơn “có thói quen túm chặt lấy đầu Bấc rồi đưa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đảo qua đảo lại, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mà đối với nó lại là những lời nói nựng âu yếm". Với con Bấc, đó là những giây phút thần tiên mà chỉ có Giôn Thoóc-tơn mới trao cho nó trong sự vuốt ve, yêu thương. Lúc đó, con Bấc cảm thấy “không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ”, “tiếng rủa rủ rỉ bên tai”, Sự vui sướng của Bấc đến cực độ, có lúc nó cảm thấy “quả tim mình nhảy tung ra khỏi lồng ngực”.
Tình yêu thương giữa người và vật nuôi cũng có “cho” có “nhận” trong mối giao cảm, giao hòa, tương tác. Đây là một đoạn vãn tuyệt bút nói về mối quan hệ sâu sắc. đẹp đẽ và hiếm có ấy: “Khi được buông ra, nó bật dứng dậy thẳng lên, miệng cười, mắt hùng hồn diễn cảm, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế dứng yên bất động. Những lúc ấy, Giôn Thoóc-tơn lai kêu lên, trân trọng: “Trời đất! Đằng ấy hầu như biết nói đấy!”. Bấc như một đứa trẻ giàu tình cảm, nó “có một kiểu biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta”. Nó hay cắn vào tay Giôn Thoóc-tơn “ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc sau mới mất ”. Và chỉ có anh mới cảm nhận một cách hạnh phúc rằng “cái cắn vờ ấy là cử chỉ âu yếm, yêu thương
Lơn-đơn với tình yêu thương loài vật, với cái tài quan sát và diễn tả. đặc biệt ông đã phát hiện ra, đã “sống" với những rung động, với những biến thái tâm tình, ông đã “hiểu dược ” ngôn ngữ riêng của một vật nuôi đã được thuần dưỡng và gắn bó lâu đời với con người, một vật nuôi khôn nhất, trung thành nhất và giàu tình cảm nhất, đổ nói lên một cách xúc động về mối quan hệ “sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đêh mức cuồng nhiệt ” giữa Giôn Thoóc-tơn và con Bấc.
Nếu như phần đầu, nhà văn đã lấy mối quan hệ giữa con Bấc với gia đình Thẩm phán Mi-lơ để làm nổi bật mối tình yêu thương đặc biệt giữa con Bấc với Giôn Thoóc-tơn, thì ở phần giữa ông lại so sánh cách biểu hiện tình cảm của con Bấc và những con chó khác đối với chủ, mỗi con một vẻ. “Xơ-kit có thói quen thọc cúi mũi của nó vào dưới bàn tay của Thoóc-tơn rồi hích hích mãi cho đến khi được vỗ về... Nich thì... tựa cái đầu to lớn của nó lên đầu gối của Thoóc-tơn ”. Còn Bấc thì diễn đạt tình thương yêu bằng “sự tôn thờ”, sung sướng đến “cuồng lên” khi được Thoóc-tơn “vuốt ve” hoặc “nói chuyện " với nó... Thế giới loài vật được Lơn-đơn nhìn nhận và miêu tả như thế giới con nguời tràn ngập tình yêu thương và biết sống trong sự giao cảm đầy hạnh phúc! Con Bấc “thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hàng giờ, mắt hau háu, tỉnh táo, linh lợi, ngước nhìn thẳng vào mặt anh, chăm chú vào đấy, xem xét kĩ nét mặt, theo dõi với một mối quan tâm đặc biệt từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên thần sắc Có lúc con Bấc ngắm nhìn chủ từ phía sau, và bằng linh cảm. giao cảm giữa người và chó, anh quay đầu nhìn lại, đôi mắt Thoóc-tơn “tỏa rạng tình cảm tự đáy lòng”, còn “tình cam của Bấc cũng ngời ánh lên qua đôi mắt nỏ ”,
Cách ngồi, cái ngước nhìn, cái lắng nghe và theo dõi cặp mắt và ánh mắt... của con chó Bấc hiện lên trên trang văn như một linh hồn người, trong biểu cảm có chiều sâu lí trí, trong tâm hồn có cả chiều cao của tư duy. Con chó Bấc không chi có tình yêu thương mà còn có cả những suy nghĩ sống bên "ông chủ lí tưởng ". Con chó Bấc cũng có nỗi lo. Cuộc đời ba chìm bảy nổi đã qua, luôn luôn ám ảnh nó, “nó không muốn rời Thoóc-tơn ra một bước”. Nó luôn luôn sợ, Thoóc-tơn cũng lại biến khòi cuộc đời của nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây. Cả trong giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Đêm nào nó cũng tỉnh giấc giữa chừng, rồi trườn qua giá lạnh đến đứng ở mép lều “lắng nghe tiếng thở đều đêu của chủ Chi tiết ấy là một nét vẽ cảm động gợi lên trong lòng ta nhiều cảm thương xót xa. À ra thế đó, không chỉ riêng ở con người, mà cả những vật nuôi như con chó Bấc tinh khôn, tình cảm này cũng sợ li biệt! Nhà vãn Lơn-đơn đã nói được điều đó và diễn đạt bằng những hình ảnh giàu giá trị nhân bản.
Tóm lại, Lơn-đơn đã lấy tình thương để tả loài vật. Ông đã miêu tả sống động, hấp dẫn con chó mang tình người. Nó đã sống tình nghĩa thủy chung như con người. Chúng ta học tập ở Lơn-đơn nghệ thuật tinh tế, biểu cảm trong miêu tả loài vật. Con chó Bấc nhân hậu. tình nghĩa đã làm cho thế giới tâm hồn chúng ta trở nên phong phú đối với những vật nuôi trong gia đình. Biết sống trong tình người, trong tình thương là cách sống đẹp nhất.