Top 7 Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong "Vợ chồng A Phủ" hay nhất

Hà Ngô 45 0 Báo lỗi

Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm nổi bật của nền văn học hiện thực nước ta những năm kháng chiến chống Pháp, khi viết về đề tài người phụ nữ dân tộc ... xem thêm...

  1. Trong các tác giả văn học Việt Nam, Tô Hoài được nhớ tới như một bậc thầy lão luyện, kho tàng văn học ông để lại đã gắn bó với bao lớp thế hệ, từ dế mèn phiêu lưu kí, đế vợ chồng A Phủ. Nói đến truyện ngắn vợ chồng A Phủ, ta không thể không nghĩ ngay đến nhân vật Mị. Cô gái đã thắp sáng lên ngọn lửa hi vọng cho mọi cô gái chịu áp bức ở Tây Bắc nước ta thời bấy giờ.


    Mị là hiện thân cho tấm lòng nhân đạo, và ngòi bút hết sức bén nhạy của Tô Hoài. Ông vốn là một người ưa tìm hiểu những phong tục tập quán, nên có cái nhìn rất rõ về hoàn cảnh số phận, những khó khăn mà người phụ nữ miền núi phải gánh chịu lúc bấy giờ.


    Tô Hoài nhắc đến Mị, đầu tiên với những vẻ đẹp phẩm chất của cô, mà vẻ đẹp ấy đẹp lắm, trong sáng thuần khiết và thanh cao lắm, quý như một viên ngọc giữa núi rừng và không gì có thể làm viên ngọc ấy bị mài mòn và ngừng tỏa sáng. Tuy nhiên, hoàn cảnh của Mị lại trớ trêu, vì đúng là “hồng nhan bạc mệnh”. Mẹ mất sớm, Mị ở với cha, và ở trong một gia đình mà có truyền kiếp nợ thống lí. Nhưng Mị lại là một cô gái đẹp và tài năng, mị không những biết thổi sáo mà còn là cô gái khiến các chàng trai trong bản “đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” không những thế Mị còn là một cô gái vô cùng hiếu thảo và ngoan ngoãn, Mị có thể chịu khổ cực vất vả để trả nợ thay cha, chứ nhất quyết không bán rẻ lòng tự trọng và chịu gò ép trong hoàn cảnh là con dâu nhà giàu. Mị hiện lên đầu truyện với những đức tính cao quý mà một cô gái như vậy, xứng đáng có được cuộc sống như mình hằng ao ước.


    Nhưng, đời không cho Mị tự do, dù Mị có muốn trốn chạy như thế nào đi chăng nữa. Hôm ấy, Mị bị A Sử bắt về cúng trình ma làm con dâu gạt nợ cho thống lí Pá Tra, và kể từ đó, cuộc sống tâm hồn và thể xác Mị bị đọa đày khổ cực. Nhưng, với tấm lòng cảm thương sâu sắc, Tô Hoài đã để cho bản chất của Mị được hiện lên, những khát vọng, ước ao một thời lại trỗi dậy mạnh mẽ. Trong đêm tình mùa xuân, hồi ức của một thời được sống với chính mình, với những gì mình ao ước trỗi dậy trong Mị. Mị “cứ uống ừng ực từng bát” rượu, rồi lại thấy “phơi phới trở lại” Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ, nhận ra mình với A Sử đến với nhau chẳng vì tình. Mị muốn vui chơi, Mị muốn được sống và Mị khát khao sống. Nhưng, ngay hôm đó, khi ngọn lửa tâm hồn Mị vừa trỗi dậy thì A Sử đã trói chặt Mị vào cột nhà, đầy đau đớn và thương tâm, Mị không khóc được, không cựa quậy được, và Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.


    Ngày A Phủ bị giải đến nhà thống lí, và lần đầu tiên gặp A Phủ, Mị vẫn còn cái tâm trạng khá thờ ơ. Bởi trong lòng Mị vốn đã chết, nên cuộc sống với Mị cũng chỉ là sự lặp đi lặp lại của thời gian và của sự tồn tại mà thôi. Nhưng, hôm ấy lại khác, “Mị lé mắt trông sang” chợt thấy một giọt nước mắt đắng cay, tủi hờn từ A Phủ. Giọt nước mắt lóng lánh ấy đã nhắc lại cho Mị nhớ thời gian Mị bị thằng A Sử trói đứng đầy nhẫn tâm, tàn ác. “Chúng nó thật độc ác” Mị nhận ra một sự thật mà bấy lâu nay ẩn chứa từ sâu trái tim đã nguội lạnh của mình. “chết đau, chết đói, chết rét” Mị cảm thương cho A Phủ bằng chính sự cảm thương Mị có ngày trước, trái tim tiềm tàng của Mị được thức tỉnh nhanh chóng. Và dứt khoát, Mị cắt dây trói và nói “đi ngay”...


    Và hành động trói dây buộc A Phủ cùng việc ngay sau đó Mị chạy theo A Phủ vào bóng tối, cũng là điều tất yếu của một con người đã bị dồn nén đến mức cùng cực. sức sống mạnh mẽ được trỗi dậy, và đã kết thúc quãng thời gian đầy ải, tối tăm mà Mị đã phải chịu trong nhà thống lí Pá Tra, hành trình đi theo A Phủ cũng chính là một hành trình tìm đến sự sống mới của Mị, và những hi vọng dù là trong bóng tối, Mị cũng đã không còn gì để mất, để phải sợ nữa...


    Mị là nhân vật số phận, và nhờ số phận hành động của Mị đã kể cho ta nghe về một ngòi bút đầy nhân đạo, và một trái tim đầy cảm thông của Tô Hoài. Nhà Văn đã góp một tiếng nói chung vào dòng chảy của văn học dân tộc, để ca ngợi những phẩm chất cao quý của người phụ nữ, và khẳng định niềm tin tưởng, hi vọng vào cuộc sống luôn hướng về cái đẹp, cái thiện.

    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong
    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong "Vợ chồng A Phủ" số 1

  2. Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một trong những tác phẩm nổi bật của nền văn học hiện thực nước ta những năm kháng chiến chống Pháp, khi viết về đề tài người phụ nữ dân tộc miền núi và số phận bất hạnh của họ, cũng như những vẻ đẹp tâm hồn tiềm tàng đáng quý, đáng trân trọng. Có thể thấy rõ rằng văn của Tô Hoài không nhằm mục đích chính là phản ánh hiện thực mà chủ yếu là để ca ngợi những vẻ đẹp của con người ở tầng lớp tận cùng đáy của xã hội, chịu sự áp bức của cường quyền và thần quyền phong kiến. Thế nên nhân vật của ông luôn có những sự chuyển biến cảm xúc, tâm trạng tinh tế, cùng những bước ngoặt rất "đắt" thể hiện sự vùng lên mạnh mẽ để tự giải thoát bản thân khỏi số phận đớn đau, mà có lẽ ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là cảnh Mị chạy theo A Phủ trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra.


    Nói về hành động bỏ trốn của Mị, nếu như không xét đến một hoàn cảnh nào khác thì đó là một sự kiện xấu xa, trắc nết, bởi lẽ trong phong tục truyền thống của các dân tộc miền núi, hay trong nề nếp gia phong của dân tộc Việt Nam, người ta vẫn đề cao sự chung thủy, kiên trinh của người đàn bà. Mị đã cúng trình mà nhà thống lý Pá Tra, thì đã là người của nhà ấy, là vợ của A Sử, chết cũng phải là ma của ngôi nhà này, không thể đổi khác. Thế nhưng khi xét đến toàn bộ câu chuyện, ta lại mới nhận ra hành động bỏ trốn của Mị dường như là một điều tất yếu, là sự kiện nhất định phải xảy ra sau một loạt các chuỗi biến cố trong cuộc đời bất hạnh của Mị. Mị là một người con gái xinh đẹp, biết thổi sáo, thổi sáo rất hay, lại được nhiều trai làng để ý và Mị cũng có riêng cho mình một tình yêu đẹp đẽ, có lẽ sẽ đơm thành trái nếu không có món nợ truyền kiếp của cha Mị. Thêm vào đó Mị cũng là người con gái chăm chỉ, chịu khó, Mị sẵn sàng lên nương trồng bắp, trồng sắn để trả nợ thay cha, chứ không muốn gả vào làm dâu nhà giàu có. Điều đó thể hiện được tấm lòng hiếu thảo, không tham phú phụ bần của Mị, và đáng lý rằng một người con gái như vậy phải đáng được hưởng một cuộc đời ấm êm, dẫu không giàu sang nhưng hạnh phúc, tự do. Thế nhưng sức mạnh của cường quyền và thần quyền phong kiến đã không cho phép điều đó xảy ra, A Sử đã dùng vũ lực để bắt Mị về cúng trình ma, ép Mị trở thành con dâu gán nợ, thực tế là trở thành một nô lệ suốt đời làm lụng và phục dịch cho nhà nó. Ban đầu Mị thấy đau khổ quá, Mị đã nhiều lần muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi cho đỡ khổ, Mị chạy về khóc xin cha,... thế nhưng cuối cùng vì chữ "hiếu" vì thương cha, sợ mình chết rồi thì người ta lại bắt tội cha, Mị đành quay về sống tại căn nhà lạnh lẽo, ác độc ấy như một cái xác không hồn. Bao nhiêu niềm vui sướng, hạnh phúc của tuổi trẻ dường như đã tàn lụi và nguội lạnh như một nắm tro tàn trong tâm hồn của người đàn bà tội nghiệp. Mị làm lụng quanh năm suốt tháng, đầu óc không nghĩ gì ngoài chuyện đi làm, Mị quên cả cách giao tiếp nói chuyện, khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi, đầu cúi xuống, sống lầm lũi như một con rùa trong xó cửa. Khổ sở đến độ Mị còn ý thức một cách đau đớn tột cùng rằng: "ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi", "Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày". Không chỉ khổ sở về mặt thể xác mà cuộc đời của Mị còn là những đày đọa về mặt tinh thần, Mị phải sống với người mình không yêu, phải từ bỏ mối tình dang dở của mình, không còn được thổi sáo, thổi lá, chơi xuân cùng chị em như khi còn ở nhà. Mị hoàn toàn mất hết quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, căn buồng Mị ở chẳng khác nào một cái nhà tù khi mà chỉ có một ô cửa bé bằng bàn tay "lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng". Và cuộc đời của Mị chính là một bản án chung thân không hồi kết, Mị sống trong cảnh đau khổ tột cùng ấy sao có thể không chai lì, tuyệt vọng và chết lặng cho được.


    Một sự chuyển biến, một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị khởi đầu cho sự tự giải thoát khi chạy theo A Phủ ấy là nhờ vào âm thanh của sự sống: Tiếng sáo gọi bạn tình mùa xuân réo rắt, vui nhộn quẩn quanh. Nó đã khơi gợi lại trong lòng Mị biết bao nhiêu kỷ niệm, khiến lòng Mị sống lại những xúc cảm ham sống, ham hạnh phúc, Mị nhẩm hát theo tiếng sáo, rồi Mị cũng học theo người ta uống rượu, uống ừng ực từng bát. Đỉnh điểm của sự ý thức và sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị được bộc lộ khi Mị ý thức một cách mạnh mẽ rằng:"Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết". Mị vào buồng mặc váy hoa, vấn lại tóc định đi chơi, thì A Sử về nó trói Mị vào cột nhà, ngay lúc này đây lòng Mị vẫn bay theo những tiếng sáo ngoài đường, rồi khi trở lại thực tại, Mị nghĩ về chuyện đã từng có một người đàn bà trong nhà này bị trói cho đến chết. Một kể vốn trước đây đã không còn thiết tha chuyện chết hay sống gì vậy mà giờ đây lại thấy sợ hãi, "Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau từng mảnh thịt". Điều đó cho thấy một cách rõ ràng rằng Mị vẫn còn yêu cuộc đời này lắm, vẫn còn những khao khát được sống, được hạnh phúc, được tự do, Mị không muốn chết vào lúc này, đời Mị còn dài lắm, dù rằng Mị cũng chưa nghĩ ra được giải pháp giải thoát cho bản thân.


    Đến khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng giữa sân vì làm mất một con bò và có thể phải đền mạng vì con bò ấy, Mị thoạt đầu tỏ ra chẳng quan tâm, bởi lẽ Mị lo cho thân mình còn chưa xong, nói gì đến những kẻ khác. Thế nhưng khi tận mắt chứng kiến giọt nước cay đắng, xót xa của một người đàn ông "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen" của A Phủ, lòng Mị đã có những biến đổi lớn. Mị thấy căm giận, phẫn nộ trước sự bất công và độc ác của đám người nhà thống lý Pá Tra, thấy thương xót và đồng cảm cho cuộc đời vừa mới bắt đầu của A Phủ mà nay lại sắp phải chấm dứt chỉ vì cái sự nghèo đói và cách biệt tầng lớp. Từ một người phụ nữ yếu đuối, ấy vậy mà Mị lại quyết tâm giải cứu A Phủ, mở cho anh một con đường mới. Ban đầu có lẽ Mị đã định rằng mình dù gì có chết cũng phải là ma của nhà này, thế nên cô quyết định hy sinh để cắt dây trói cho A Phủ, còn bản thân ở lại chịu tội. Tuy nhiên, sau khi thấy người đàn ông trước mặt dù đã sức cùng lực kiệt, khuỵu xuống vì đói rét, nhưng vẫn gắng gượng đứng dậy, dùng hết sức bình sinh sinh chạy, lăn xuống dưới sườn đồi để mưu cầu sự sống. Trong lòng Mị bỗng nhiên vỡ ra một cái gì đó, phải rồi Mị đã giải thoát được cho người khác thì cớ sao không thể tự giải thoát cho mình, và thế là Mị không còn do dự gì nữa, chạy lao theo A Phủ. Câu nói "Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất" vừa là lời giải thích với A Phủ, vừa là những ý thức sâu sắc của Mị về cuộc đời đầy bế tắc và đen tối ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ cả sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sự vùng dậy mạnh mẽ của nhân vật này để đi theo tiếng gọi của tự do, của hạnh phúc, mong muốn khao khát được làm lại một cuộc đời mới, một cuộc đời do chính bản thân mình định đoạt làm chủ. Hành động bỏ trốn của Mị, đã kéo Mị ra khỏi ách thống trị đàn áp tàn ác của cường quyền và thần quyền phong kiến, trở thành động lực, tấm gương cho nhiều những người phụ nữ có chung số phận với Mị ở Hồng Ngài nói riêng và vùng núi phía Bắc nói riêng. Cũng lại chứng minh được rằng sự đàn áp của cường quyền và thần quyền không bao giờ có thể giam cầm được những con người có tâm hồn khao khát tự do, có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, mà chỉ có thể giam cầm được thể xác của họ mà thôi.


    Hành động của chạy theo A Phủ của Mị là một hành động mang tính bước ngoặt lớn, minh chứng rằng một con người chỉ cần có tấm lòng khao khát tự do, sự vùng dậy mạnh mẽ, sức sống tiềm tàng mãnh liệt thì họ có thể tự giải thoát cho mình bất cứ lúc nào. Đánh dấu một bước chuyển biến mới trong tư duy của những con người ở miền núi, cường quyền và thần quyền phong kiến đã đến ngày tận thế, suy tàn, không còn phù hợp trong thời đại mới, không còn đủ sức để đàn áp con người thấp cổ bé họng nữa. Mà có thể một mai đây chính nó sẽ bị những con người này lật đổ, để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn công bằng hơn.

    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong
    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong "Vợ chồng A Phủ" số 2
  3. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được trích từ tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tập truyện đã được tặng giải Nhất, giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 – 1955. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn hay viết về một sự đổi đời kì diệu. Xoay quanh hai nhân vật chính là Mị và A Phủ, Tô Hoài đã khắc họa hai chặng đường hoàn toàn đối lập. Chặng đường đầu tiên là những ngày ở Hồng Ngài, Mị và Phủ - hai con người xinh tươi, giỏi giang phải cam cảnh nô lệ ê chề. Chặng đường thứ hai là ở Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã vùng lên từ bóng đêm của cường quyền, thần quyền để đến với ánh sáng của tự do. Sự kiện đánh dấu bước chuyển biến giữa hai chặng đường chính là hành động Mị cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ.


    Hành động Mị chạy theo A Phủ trước nhất chính là hành động Mị chạy khỏi những áp bức, đày đọa của đời mình. Cuộc đời của Mị những ngày tháng ở Hồng Ngài gồm hai giai đoạn chính: trước khi làm dâu và sau khi làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Trước khi bị bắt về cái gia đình đã giết chết tuổi xuân của mình, Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, yêu lao động lại hiếu thảo với cha mẹ. Mị cũng có tình yêu như bao người, cũng được bao kẻ say mê, theo đuổi “con trai đến đứng nhẵn cả vách đầu giường nhà Mị”. Tô Hoài đã miêu tả tài năng thổi sáo của Mị như sau “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người say mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Đứng trước món nợ của bố, Mị nhận lấy trách nhiệm của người con, thà là vất vả lao động “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” còn hơn phải trở thành con dâu gạt nợ “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Thế nhưng số phận bi kịch đã không nhún nhường và buông tha cho Mị. Mị bị bắt và trở thành con dâu gạt nợ. Mị bị bắt đem cúng “trình ma” nhà thống lý. Từ đó, đoạn đời vui vẻ của Mị đặt một dấu chấm kết thúc để bắt đầu thân phận của con người lao động mịt mờ không lối thoát. Trước món nợ truyền kiếp và sự áp chế của thần quyền – Mị nghĩ rằng đã cúng “trình ma” thì mình chỉ còn biết làm thân trâu ngựa cho đến ngày chết rũ xương ở đấy mà thôi – Mị hoàn toàn tê liệt về thể xác lẫn tinh thần “Mỗi ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Vì thế, mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên hình ảnh bi thương cùng quẫn của kiếp người: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước suối dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Cuộc đời A Phủ cũng như vậy, từ một, cũng là nạn nhân của cường quyền, thần quyền và chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi. Trước khi trở thành con ở nhà thống lý, A Phủ tuy có xuất thân bất hành “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc” nhưng vẫn là chàng trai yêu đời và có nhiều phẩm chất tốt đẹp. A Phủ là chàng trai tự do của núi rừng, yêu lao động, tự do, giỏi giang “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”. A Phủ còn là niềm khát khao của bao cô gái trong làng “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”. Vì tội đánh con quan – A Sử mà A Phủ từ đứa con của núi rừng trở thành kẻ nô lệ với bản án chung thân “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Hai con người tươi trẻ giờ trở thành hai kẻ cùng khổ, số phận họ bị quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lý Pá Tra.


    Những ngày tháng làm nô lệ ở nơi địa ngục trần gian của một Mị tưởng chừng không lối thoát nhưng cuối cùng, chính sức sống tiềm tàng bên trong đã khiến Mị hành động. Quá khứ thì tươi đẹp. Hiện tại thì nhục nhã ê chề. Còn tương lai sẽ ra sao? Đêm tình mùa xuân đã khe khẽ nhen nhóm nhận thức bên trong Mị để đến đêm mùa đông, Mị quyết định cắt dây cởi trói của A Phủ. Chỉ vì để con hổ ăn mất bò mà chàng phải chịu cảnh trói đứng, gần như phải dùng mạng sống của mình thay thế. A Phủ bị bắt trói đứng ngoài sân nhiều đêm nhiều. Một cuộc vượt ngục âm thầm diễn ra, hai con người nô lệ giờ dìu dắt nhau để thoát khỏi cảnh tù đày. Hành động cắt dây thể hiện sự can đảm tuyệt đối. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người tỉnh thức là cơ sở để Mị phát triển thành lòng thương mình, xót thương cho số phận đau thương mà bấy lâu nay nàng âm thầm chấp nhận. Mị sẽ chẳng còn phải chịu cảnh “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” hay bị A Sử “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà nữa”… Mị cũng sẽ chẳng còn phải vay mượn men rượu, vay mượn tiếng sáo để sống lại những ngày tự do trước nữa bởi phía trước nàng chính là cuộc đời mới, là con đường mới.


    Bên cạnh đó, hành động Mị chạy theo A Phủ còn là hành động Mị hiện thực hóa khát vọng tự do, đến với ánh sáng cách mạng. Có thể nói đây là giá trị nhân đạo mới mẻ trong ngòi bút Tô Hoài nói riêng và ngòi bút các nhà văn sau cách mạng nói chung. Lí tưởng thời đại đã thay đổi, con người đã tìm ra lối thoát tinh thần của mình. Nếu như trước cách mạng, các nhân vật thường rơi vào bế tắc, vào bi kịch thì sau cách mạng, họ đến được với sự giải phóng, với ánh sáng tự do. Ta thấy cái kết của nhân vật Chí Phèo hay chị Dậu hoàn toàn đối lập với cái kết của Mị, của A Phủ. Cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị đã từng nghĩ đến viễn cảnh phải thay thế mạng sống mình nhưng cuối cùng, vượt qua bóng ma thần quyền và sự áp chế của cường quyền, vượt qua nỗi sợ đã gặm nhấm thể xác và tinh thần, Mị đã chạy theo A Phủ. Bước chân của Mị là bước chân đạp đổ hiện thực “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Cuối cùng, cô Mị sau bao năm vô cảm, lùi lũi, trơ trơ cũng đã đối diện với nỗi sợ của mình. Nàng đã hồi sinh trở lại từ sự chết dần chết mòn những ngày tháng qua. Nàng đã vùng lên đấu tranh, ngọn lửa sức sống âm thầm nhưng mạnh mẽ, kết tinh thành hành động táo bạo, dứt khoát. Chính dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen lại kia đã đem đến sự hồi sinh cho Mị - một sự hồi sinh kì diệu. Thế là từ đây, Mị kết thúc cuộc đời cuộc đời con dâu gạt nợ, A Phủ kết thúc kiếp nô lệ tôi đòi. Họ dìu dắt nhau từ bóng đêm lầm than, từ áp bức của cường quyền và thần quyền để đến vùng đất Phiềng Sa – vùng đất hứa hẹn niềm tin, tự do và hạnh phúc.


    Hành động Mị chạy theo A Phủ đã khép lại những tháng ngày quẩn quanh, bế tắc của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Tô Hoài bằng tài năng của mình đã xây dựng tác phẩm thành công trên nhiều phương diện: đề tài, kết cấu, nhân vật. Do đó, “Vợ chồng A Phủ” trở thành một tác phẩm tiêu biểu viết về sự trỗi dậy của thân phận con người, cụ thể ở đây là người dân vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến.

    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong
    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong "Vợ chồng A Phủ" số 3
  4. Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một trong những tác phẩm nổi bật của nền văn học hiện thực nước ta những năm kháng chiến chống Pháp, khi viết về đề tài người phụ nữ dân tộc miền núi và số phận bất hạnh của họ, cũng như những vẻ đẹp tâm hồn tiềm tàng đáng quý, đáng trân trọng. Có thể thấy rõ rằng văn của Tô Hoài không nhằm mục đích chính là phản ánh hiện thực mà chủ yếu là để ca ngợi những vẻ đẹp của con người ở tầng lớp tận cùng đáy của xã hội, chịu sự áp bức của cường quyền và thần quyền phong kiến. Thế nên nhân vật của ông luôn có những sự chuyển biến cảm xúc, tâm trạng tinh tế, cùng những bước ngoặt rất "đắt" thể hiện sự vùng lên mạnh mẽ để tự giải thoát bản thân khỏi số phận đớn đau, mà có lẽ ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là cảnh Mị chạy theo A Phủ trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra.


    Nói về hành động bỏ trốn của Mị, nếu như không xét đến một hoàn cảnh nào khác thì đó là một sự kiện xấu xa, trắc nết, bởi lẽ trong phong tục truyền thống của các dân tộc miền núi, hay trong nề nếp gia phong của dân tộc Việt Nam, người ta vẫn đề cao sự chung thủy, kiên trinh của người đàn bà. Mị đã cúng trình mà nhà thống lý Pá Tra, thì đã là người của nhà ấy, là vợ của A Sử, chết cũng phải là ma của ngôi nhà này, không thể đổi khác. Thế nhưng khi xét đến toàn bộ câu chuyện, ta lại mới nhận ra hành động bỏ trốn của Mị dường như là một điều tất yếu, là sự kiện nhất định phải xảy ra sau một loạt các chuỗi biến cố trong cuộc đời bất hạnh của Mị. Mị là một người con gái xinh đẹp, biết thổi sáo, thổi sáo rất hay, lại được nhiều trai làng để ý và Mị cũng có riêng cho mình một tình yêu đẹp đẽ, có lẽ sẽ đơm thành trái nếu không có món nợ truyền kiếp của cha Mị. Thêm vào đó Mị cũng là người con gái chăm chỉ, chịu khó, Mị sẵn sàng lên nương trồng bắp, trồng sắn để trả nợ thay cha, chứ không muốn gả vào làm dâu nhà giàu có. Điều đó thể hiện được tấm lòng hiếu thảo, không tham phú phụ bần của Mị, và đáng lý rằng một người con gái như vậy phải đáng được hưởng một cuộc đời ấm êm, dẫu không giàu sang nhưng hạnh phúc, tự do. Thế nhưng sức mạnh của cường quyền và thần quyền phong kiến đã không cho phép điều đó xảy ra, A Sử đã dùng vũ lực để bắt Mị về cúng trình ma, ép Mị trở thành con dâu gán nợ, thực tế là trở thành một nô lệ suốt đời làm lụng và phục dịch cho nhà nó. Ban đầu Mị thấy đau khổ quá, Mị đã nhiều lần muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi cho đỡ khổ, Mị chạy về khóc xin cha,... thế nhưng cuối cùng vì chữ "hiếu" vì thương cha, sợ mình chết rồi thì người ta lại bắt tội cha, Mị đành quay về sống tại căn nhà lạnh lẽo, ác độc ấy như một cái xác không hồn. Bao nhiêu niềm vui sướng, hạnh phúc của tuổi trẻ dường như đã tàn lụi và nguội lạnh như một nắm tro tàn trong tâm hồn của người đàn bà tội nghiệp. Mị làm lụng quanh năm suốt tháng, đầu óc không nghĩ gì ngoài chuyện đi làm, Mị quên cả cách giao tiếp nói chuyện, khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi, đầu cúi xuống, sống lầm lũi như một con rùa trong xó cửa. Khổ sở đến độ Mị còn ý thức một cách đau đớn tột cùng rằng: "ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi", "Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày". Không chỉ khổ sở về mặt thể xác mà cuộc đời của Mị còn là những đày đọa về mặt tinh thần, Mị phải sống với người mình không yêu, phải từ bỏ mối tình dang dở của mình, không còn được thổi sáo, thổi lá, chơi xuân cùng chị em như khi còn ở nhà. Mị hoàn toàn mất hết quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, căn buồng Mị ở chẳng khác nào một cái nhà tù khi mà chỉ có một ô cửa bé bằng bàn tay "lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng". Và cuộc đời của Mị chính là một bản án chung thân không hồi kết, Mị sống trong cảnh đau khổ tột cùng ấy sao có thể không chai lì, tuyệt vọng và chết lặng cho được.


    Một sự chuyển biến, một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị khởi đầu cho sự tự giải thoát khi chạy theo A Phủ ấy là nhờ vào âm thanh của sự sống: Tiếng sáo gọi bạn tình mùa xuân réo rắt, vui nhộn quẩn quanh. Nó đã khơi gợi lại trong lòng Mị biết bao nhiêu kỷ niệm, khiến lòng Mị sống lại những xúc cảm ham sống, ham hạnh phúc, Mị nhẩm hát theo tiếng sáo, rồi Mị cũng học theo người ta uống rượu, uống ừng ực từng bát. Đỉnh điểm của sự ý thức và sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị được bộc lộ khi Mị ý thức một cách mạnh mẽ rằng:"Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết". Mị vào buồng mặc váy hoa, vấn lại tóc định đi chơi, thì A Sử về nó trói Mị vào cột nhà, ngay lúc này đây lòng Mị vẫn bay theo những tiếng sáo ngoài đường, rồi khi trở lại thực tại, Mị nghĩ về chuyện đã từng có một người đàn bà trong nhà này bị trói cho đến chết. Một kể vốn trước đây đã không còn thiết tha chuyện chết hay sống gì vậy mà giờ đây lại thấy sợ hãi, "Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau từng mảnh thịt". Điều đó cho thấy một cách rõ ràng rằng Mị vẫn còn yêu cuộc đời này lắm, vẫn còn những khao khát được sống, được hạnh phúc, được tự do, Mị không muốn chết vào lúc này, đời Mị còn dài lắm, dù rằng Mị cũng chưa nghĩ ra được giải pháp giải thoát cho bản thân.


    Đến khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng giữa sân vì làm mất một con bò và có thể phải đền mạng vì con bò ấy, Mị thoạt đầu tỏ ra chẳng quan tâm, bởi lẽ Mị lo cho thân mình còn chưa xong, nói gì đến những kẻ khác. Thế nhưng khi tận mắt chứng kiến giọt nước cay đắng, xót xa của một người đàn ông "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen" của A Phủ, lòng Mị đã có những biến đổi lớn. Mị thấy căm giận, phẫn nộ trước sự bất công và độc ác của đám người nhà thống lý Pá Tra, thấy thương xót và đồng cảm cho cuộc đời vừa mới bắt đầu của A Phủ mà nay lại sắp phải chấm dứt chỉ vì cái sự nghèo đói và cách biệt tầng lớp. Từ một người phụ nữ yếu đuối, ấy vậy mà Mị lại quyết tâm giải cứu A Phủ, mở cho anh một con đường mới. Ban đầu có lẽ Mị đã định rằng mình dù gì có chết cũng phải là ma của nhà này, thế nên cô quyết định hy sinh để cắt dây trói cho A Phủ, còn bản thân ở lại chịu tội. Tuy nhiên, sau khi thấy người đàn ông trước mặt dù đã sức cùng lực kiệt, khuỵu xuống vì đói rét, nhưng vẫn gắng gượng đứng dậy, dùng hết sức bình sinh sinh chạy, lăn xuống dưới sườn đồi để mưu cầu sự sống. Trong lòng Mị bỗng nhiên vỡ ra một cái gì đó, phải rồi Mị đã giải thoát được cho người khác thì cớ sao không thể tự giải thoát cho mình, và thế là Mị không còn do dự gì nữa, chạy lao theo A Phủ. Câu nói "Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất" vừa là lời giải thích với A Phủ, vừa là những ý thức sâu sắc của Mị về cuộc đời đầy bế tắc và đen tối ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ cả sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sự vùng dậy mạnh mẽ của nhân vật này để đi theo tiếng gọi của tự do, của hạnh phúc, mong muốn khao khát được làm lại một cuộc đời mới, một cuộc đời do chính bản thân mình định đoạt làm chủ. Hành động bỏ trốn của Mị, đã kéo Mị ra khỏi ách thống trị đàn áp tàn ác của cường quyền và thần quyền phong kiến, trở thành động lực, tấm gương cho nhiều những người phụ nữ có chung số phận với Mị ở Hồng Ngài nói riêng và vùng núi phía Bắc nói riêng. Cũng lại chứng minh được rằng sự đàn áp của cường quyền và thần quyền không bao giờ có thể giam cầm được những con người có tâm hồn khao khát tự do, có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, mà chỉ có thể giam cầm được thể xác của họ mà thôi.


    Hành động của chạy theo A Phủ của Mị là một hành động mang tính bước ngoặt lớn, minh chứng rằng một con người chỉ cần có tấm lòng khao khát tự do, sự vùng dậy mạnh mẽ, sức sống tiềm tàng mãnh liệt thì họ có thể tự giải thoát cho mình bất cứ lúc nào. Đánh dấu một bước chuyển biến mới trong tư duy của những con người ở miền núi, cường quyền và thần quyền phong kiến đã đến ngày tận thế, suy tàn, không còn phù hợp trong thời đại mới, không còn đủ sức để đàn áp con người thấp cổ bé họng nữa. Mà có thể một mai đây chính nó sẽ bị những con người này lật đổ, để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn công bằng hơn.

    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong
    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong "Vợ chồng A Phủ" số 4
  5. Trong giới văn học Việt Nam, Tô Hoài được nhớ đến như một bậc thầy lão luyện, kho tàng văn học ông để lại đã gắn liền với nhiều thế hệ, từ kẻ lang thang đến vợ chồng A Phủ. Nói đến truyện ngắn Vợ chồng A Phủ chúng ta không thể không nghĩ đến nhân vật Mị. Cô gái đã thắp lên ngọn lửa hi vọng cho tất cả những cô gái bị áp bức vùng Tây Bắc nước ta lúc bấy giờ.


    Em là hiện thân của tấm lòng nhân đạo và ngòi bút vô cùng sắc sảo của Tô Hoài. Ông vốn là người thích tìm hiểu phong tục tập quán nên có cái nhìn rất rõ về hoàn cảnh, số phận, những khó khăn mà người phụ nữ miền núi thời bấy giờ phải chịu đựng.


    Tô Hoài nhắc đến Mị đầu tiên với vẻ đẹp phẩm chất của nàng, nhưng vẻ đẹp đó đẹp, trong sáng, thuần khiết và cao quý, quý như viên ngọc trong núi, không gì có thể là viên ngọc ấy hao mòn và ngừng tỏa sáng. Tuy nhiên, hoàn cảnh của Mị thật trớ trêu, bởi đúng là “hồng nhan bạc mệnh”. Mẹ mất sớm, Mị ở với bố, sống trong một gia đình nợ nần chồng chất từ lâu. Nhưng cô ấy là một cô gái xinh đẹp và tài năng, cô ấy không chỉ biết thổi sáo mà còn là một cô gái khiến các chàng trai trong làng phải “lạ lùng” không những thế cô ấy còn là một cô gái rất xinh đẹp, hiếu thảo, ngoan ngoãn, có thể làm lụng vất vả để trả nợ thay cho cha nhưng nhất định không được bán rẻ lòng tự trọng, bị ép vào hoàn cảnh làm vợ nhà giàu. Cô xuất hiện ở đầu truyện với những phẩm chất cao quý mà một cô gái như thế xứng đáng có được cuộc sống mà cô hằng mơ ước.

    Nhưng, cuộc đời không cho tôi tự do, dù tôi có muốn trốn chạy thế nào đi chăng nữa. Ngày ấy, Mị bị A Sử bắt đi thờ ma làm con dâu cho nhà thống lí Pá Tra và từ đó Mị bị dày vò cả về tinh thần lẫn thể xác. Nhưng, với tấm lòng nhân ái sâu sắc, Tô Hoài đã để cho bản chất của Mị được bộc lộ, những khát vọng, ước nguyện lại một lần nữa trỗi dậy mạnh mẽ. Trong đêm tình mùa xuân, ký ức về một thời được sống với chính mình, với những gì mình mong ước lại trỗi dậy trong Mị. Mị “uống từng bát” rượu, lòng “sảng khoái”. Mị nhận ra mình còn trẻ, nhận ra rằng Mị và A Sử không đến với nhau vì tình yêu.


    Ngày A Phủ bị giải đến nhà thống lí, lần đầu tiên gặp A Phủ, Mị còn với tâm trạng khá thờ ơ. Bởi vì trái tim tôi đã chết, cuộc sống đối với tôi chỉ là sự lặp lại của thời gian và sự tồn tại. Nhưng, hôm ấy thì khác, “mắt thần” chợt nhìn thấy giọt nước mắt chua xót và ân hận của A Phủ. Những giọt nước mắt long lanh đó làm tôi nhớ đến A Sử tàn nhẫn khi bị trói. “Họ thật độc ác.”, Mị nhận ra một sự thật mà tôi đã giấu kín trong sâu thẳm trái tim lạnh giá của mình bấy lâu nay. “đói rét, rét mướt” Mị thấy thương A Phủ với sự đồng cảm xưa cũ, nỗi lòng thầm kín nhanh chóng được đánh thức. Và dứt khoát, Mị cắt dây và nói “đi ngay”..

    Và hành động trói A Phủ, việc Mị lập tức theo A Phủ vào bóng tối cũng là tất yếu của một con người bị dồn nén đến cùng cực. Sức sống mãnh liệt được đánh thức, chấm dứt quãng thời gian tăm tối, ngột ngạt mà Mị phải chịu đựng trong nhà thống lý Pá Tra, hành trình đi theo A Phủ cũng là hành trình tìm kiếm cuộc sống mới của Mị và những hy vọng của tôi ngay cả trong bóng tối, tôi không có gì để mất, để sợ hãi.

    Mị là một nhân vật có số phận, và nhờ một hành động của số phận, tôi đã nói với bạn về ngòi bút nhân đạo và trái tim đồng cảm của Tô Hoài. Nhà văn đã góp tiếng nói chung vào dòng chảy văn học dân tộc, ca ngợi những phẩm chất cao quý của người phụ nữ, khẳng định niềm tin và hi vọng vào cuộc sống luôn hướng tới cái đẹp, cái thiện.

    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong
    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong "Vợ chồng A Phủ" số 5
  6. Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một trong những tác phẩm xuất sắc của nền văn học hiện thực nước ta trong những năm kháng chiến chống Pháp, khi viết về đề tài người phụ nữ dân tộc miền núi và số phận bất hạnh của họ cũng như vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn thật đáng quý và đáng trân trọng. Có thể thấy rõ, văn của Tô Hoài không nhằm mục đích phản ánh hiện thực là chủ yếu, mà chủ yếu là ca ngợi những vẻ đẹp của những con người thuộc tầng lớp dưới đáy xã hội, chịu sự áp bức của kẻ cường quyền. thần quyền phong kiến. Vì vậy, nhân vật của anh luôn có những chuyển biến cảm xúc, tâm trạng tinh tế và có những bước ngoặt rất “đắt” thể hiện sự vươn lên mạnh mẽ để tự giải thoát mình khỏi số phận đau thương nhưng chính nghĩa. Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là cảnh Mị chạy theo A Phủ để trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra.


    Nói về hành động bỏ trốn của Mị, nếu không tính đến những chi tiết khác thì đó là một sự việc xấu xí và đáng thương, bởi nó nằm trong thuần phong mỹ tục của các dân tộc miền núi, hay còn gọi là gia đình truyền thống. Trong gia phong của dân tộc Việt Nam, người ta vẫn đề cao sự chung thủy, bền bỉ của người phụ nữ. Mị đã làm lễ vật nhưng thống lí Pá Tra đã là người của gia đình ấy, là vợ của A Sử, chết như một bóng ma trong ngôi nhà này, không thể thay đổi được. Tuy nhiên, khi xem xét toàn bộ câu chuyện, ta nhận thấy hành động bỏ trốn của My dường như là một lẽ tất yếu sau hàng loạt biến cố trong cuộc đời bất hạnh của cô. Mị là một cô gái xinh đẹp, thổi sáo rất hay, được nhiều trai làng để ý và tôi cũng có một tình yêu đẹp của riêng mình, có lẽ sẽ đơm hoa kết trái nếu không có mối nhân duyên truyền thống. Ngoài ra, Mị còn là một cô gái cần cù, chăm chỉ, Mị sẵn sàng ra đồng trồng ngô, trồng sắn để trả nợ thay cho cha chứ không muốn gả vào nhà giàu. Điều đó thể hiện lòng hiếu thảo của nàng, không phân biệt giàu nghèo, đáng lẽ một người con gái như thế xứng đáng có một cuộc sống bình yên, tuy không giàu sang nhưng sung sướng, tự tại. Thế nhưng, cường quyền và chế độ thần quyền phong kiến không cho phép điều đó xảy ra, A Sử dùng vũ lực bắt Mị làm đồ cúng ma, buộc Mị trở thành con dâu của chủ nợ, thực chất là nô lệ suốt đời để làm việc và phục vụ ngôi nhà của mình. Lúc đầu tôi thấy khổ lắm, nhiều lần tôi muốn ăn lá cây rồi chết cho bớt khổ, nhưng cuối cùng cũng vì chữ “hiếu”. Niềm vui, hạnh phúc của tuổi trẻ dường như đã héo úa, nguội lạnh như một nắm tro tàn trong tâm hồn người đàn bà tội nghiệp. Mị làm việc quanh năm, quanh tháng, chẳng nghĩ ngợi gì ngoài lao vào công việc, quên cả cách giao tiếp, lúc nào cũng ủ rũ, cúi gằm mặt, sống như con rùa trong xó.


    Khi tôi thấy A Phủ bị trói giữa sân vì lỡ bắt một con bò và có thể phải trả giá bằng mạng sống của mình vì con bò đó, thoạt đầu Mị có vẻ không quan tâm lắm, vì Mị còn chưa lo cho mình xong chứ gì nói gì là người khác. Thế nhưng, khi tận mắt chứng kiến những giọt nước mắt chua xót, đáng thương của một người “nước mắt long lanh trườn trên gò má xám đen” của A Phủ, lòng Mị đã có những thay đổi lớn. Xấu hổ, căm phẫn trước sự bất công, tàn ác của gia đình nhà thống lí Pá Tra, xót thương và thương cảm cho cuộc đời A Phủ vừa mới bắt đầu nhưng nay đã sắp phải kết thúc vì một biến cố nghèo đói và chênh lệch giai cấp. Từ một người phụ nữ yếu đuối, Mị quyết tâm giải cứu A Phủ, mở ra cho anh một con đường mới. Lúc đầu, chắc tôi nghĩ rằng dù thế nào mình cũng sẽ là con ma của ngôi nhà này nên quyết định hi sinh để cắt dây trói cho A Phủ, còn tôi thì ở lại cai quản. Tuy nhiên, sau khi nhìn thấy người đàn ông trước mặt, dù sức cùng lực kiệt, gục ngã vì đói và lạnh nhưng vẫn gượng dậy, dùng hết sức lực bỏ chạy, lăn xuống sườn đồi tìm sự sống. Trong lòng tôi như vỡ ra một điều gì đó, phải rồi, mình đã giải thoát cho người khác rồi thì tại sao mình không giải thoát cho chính mình, nên tôi không chần chừ nữa, chạy theo A Phủ. Hành động chạy trốn của chị đã kéo chị thoát khỏi ách áp bức tàn ác của cường quyền phong kiến, thần quyền, trở thành động lực, tấm gương cho nhiều phụ nữ cùng chung số phận với chị ở Hồng Ngài nói riêng và miền núi phía Bắc nói chung. Điều đó cũng chứng tỏ rằng, sự áp bức cường quyền, thần quyền không bao giờ có thể giam cầm những con người có tâm hồn khao khát tự do, có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ mà chỉ có thể giam cầm thân xác.


    Hành động chạy theo A Phủ của Mị là một hành động mang tính bước ngoặt, chứng tỏ một con người chỉ cần có trái tim khao khát tự do thì sẽ vươn lên mạnh mẽ, có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Bạn có thể giải phóng bản thân bất cứ lúc nào. Đánh dấu bước chuyển biến mới trong tư duy của người dân miền núi, các thế lực phong kiến, thần quyền đã đến lúc lụi tàn, suy tàn, không còn phù hợp với thời đại mới, không còn khả năng trấn áp. Nhưng có thể một ngày nào đó nó sẽ bị lật đổ bởi chính những con người này, để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, công bằng hơn.

    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong
    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong "Vợ chồng A Phủ" số 6
  7. Người phụ nữ là đề tài quen thuộc trong nền văn học Việt Nam, nhất là những phụ nữ phận nhỏ bé, chịu nhiều đắng cay, tủi nhục. Đặc biệt trong giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX, đề tài này đã được thể hiện khá đặc sắc qua nhiều nhân vật. Nổi trội hơn cả là hiện tượng Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của Kim Lân. Mỗi nhân vật đều mang mỗi hoàn cảnh, số phận đáng thương nhưng ở họ vẫn toát lên những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung - tiếng nói nhân đạo đối với họ. Không những thể hiện sự quan tâm, thông cảm, đồng cảm với những số phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng, ngợi ca những phẩm chất cao quý của người phụ nữ. Đặc biệt, hai nhà văn đều làm nên những ấn tượng song trùng trong độc giả, khi làm nên cảnh Mị chạy theo A Phủ, và cô Vợ nhặt theo Tràng về làm vợ.


    Nhắc đến Tô Hoài là nhắc đến một nhà văn có sự nghiệp trải dài hơn bảy thập niên. Tô Hoài là bút danh, ông tên thật là Nguyễn Sen. Thời trẻ, ông kiếm sống bằng nhiều nghề, từ gia sư, thư ký cho tới bán hàng, làm chân kế toán cho một hiệu buồn... Đây chính là quãng thời gian ông bắt đầu khởi mạch cho vốn sống ngồn ngộn của mình tuôn trào trên những trang văn Tô Hoài đi nhiều, trải nghiệm nhiều, với cảm quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống đời thường cộng vốn hiểu biết giàu có về phong tục và đời viết không ngừng nghỉ đưa nhà văn Tô Hoài lên vị trí không thể nhầm lẫn, khó có thể thay thế. Truyện Tây Bắc ra đời năm 1953 khơi mạch cho một dòng chảy sáng tác khác, mang lại nhiều thành công hơn cho ông. Núi rừng Tây Bắc từ đấy đã trở thành đề tài mà ông gắn bó lâu dài, nặng tình và nặng nghĩa. Vợ chồng A Phủ, một trong ba truyện in trong tập Truyện Tây Bắc, có thể nói là một tác phẩm thành công bậc nhất của nhà văn Tô Hoài khi ông khơi ngòi vào mảnh đất văn chương các dân tộc miền núi.


    Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, chi tiết Mị chạy theo A Phủ nằm phần cuối của đoạn trích, cũng là đoạn mở nút, cuộc đời nhân vật bước sang một trang khác. Hành động Mị chạy theo A Phủ trước nhất chính là hành động Mị chạy khỏi những áp bức, đày đọa của đời mình. và Cuộc đời của Mị những ngày tháng ở Hồng Ngài gồm hai giai đoạn chính: trước khi làm dâu và sau khi làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Trước khi bị bắt về cái gia đình đã giết chết tuổi xuân của mình, Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, yêu lao động lại hiếu thảo với cha mẹ. Thế nhưng số phận bi kịch đã không buông tha cho Mị. Mị bị bắt và trở thành con dâu gạt nợ. Mị bị bắt đem cúng “trình ma” nhà thống lý. Từ đó, đoạn đời vui vẻ của Mị đặt một dấu chấm kết thúc để bắt đầu thân phận của con người lao động mịt mờ không lối thoát. Cuộc đời A Phủ cũng như vậy, cũng là nạn nhân của cường quyền, thần quyền và chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi.


    Những ngày tháng làm nô lệ ở nơi địa ngục trần gian của một Mị tưởng chừng không lối thoát nhưng cuối cùng, chính sức sống tiềm tàng bên trong đã khiến Mị hành động. Quá khứ thì tươi đẹp. Hiện tại thì nhục nhã ê chề. Còn tương lai sẽ ra sao? Đêm tình mùa xuân đã khe khẽ nhen nhóm nhận thức bên trong Mị để đến đêm mùa đông, Mị quyết định cắt dây cởi trói của A Phủ. Chỉ vì để con hổ ăn mất bò mà chàng phải chịu cảnh trói đứng, gần như phải dùng mạng sống của mình thay thế. A Phủ bị bắt trói đứng ngoài sân nhiều đêm nhiều. Một cuộc vượt ngục âm thầm diễn ra, hai con người nô lệ giờ dìu dắt nhau để thoát khỏi cảnh tù đày.


    Hành động cắt dây thể hiện sự can đảm tuyệt đối. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con

    người. Lòng thương người tỉnh thức là cơ sở để Mị phát triển thành lòng thương mình, xót thương cho số phận đau thương mà bấy lâu nay nàng âm thầm chấp nhận. Mị sẽ chẳng còn phải chịu cảnh “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” hay bị A Sử “xách cả một tháng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà nữa”... Mị cũng sẽ chẳng còn phải vay mượn men rượu, vay mượn tiếng sáo để sống lại những ngày tự do trước nữa bởi phía trước nàng chính là cuộc đời mới, là con đường mới. Bên cạnh đó, hành động Mị chạy theo A Phủ còn là hành động Mị hiện thực hóa khát vọng tự do, đến với ánh sáng cách mạng. Cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị đã từng nghĩ đến viễn cảnh phải thay thế mạng sống mình nhưng cuối cùng, vượt qua bóng ma thần quyền và sự áp chế của cường quyền, khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối, khoảnh khắc ấy, trong Mị trào lên niềm khao khát sống. Lúc này, cùng với nỗi sợ và lòng ham sống mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ.


    Bước chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè nặng lên Mị. Mị đã nói trong cơn gió thốc “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Ta hãy nhớ lại Mị của trước kia, từng nhiều lần muốn tìm đến cái chết, thì giờ đây, Mị lại thèm được sống. Con ma đã bất lực không thể giam giữ được Mị nữa, Mị đã thành người tự do, chính Mị chứ không phải ai khác, tự quyết định vận mệnh cho cuộc đời mình. Họ dìu dắt nhau từ bóng đêm lầm than, từ áp bức của cường quyền và thần quyền để đến vùng đất Phiềng Sa - vùng đất hứa hẹn niềm tin, tự do và hạnh phúc.


    Khi nói về Nhà văn Kim Lân, trong hình dung độc giả đó là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam đương đại, là người đã viết những trang hay nhất về làng quê bằng cả lòng yêu thương, sự gắn bó và trái tim hết mực chân thành. Ngòi bút Kim Lân sâu lắng, cẩn trọng, tỉ mẩn, viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ – những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh. Vợ nhặt nằm trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lặp lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.


    Chi tiết cô vợ nhặt theo không Tràng về làm dâu, làm vợ của một anh xóm ngụ cư giữa nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu nằm ngay đầu tác phẩm, như một nút thắt làm bung nở những mâu thuẫn, những đối nghịch, những trạng huống dở khóc, dở cười. Thị là nhân vật không tên, cũng chẳng hề có quê quán, chẳng tài sản, không gia đình, cũng không có nghề nghiệp. Thị như người trôi dạt giữa cơn lũ của nạn đói. Thật tội nghiệp. Cái đói biến người phụ nữ ấy với ngoại hình chẳng mấy ưa nhìn: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm, điều đó được thể hiện từ lời nói đến hành động. Trước hết là trong lời nói, vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.


    Trong cơn lũ của nạn đói, thị là người đang chết đuối, vớ được cái cọc là Tràng, thị đã bấu víu lấy, bám lấy để duy trì sự sống. Thân phận người vợ thật rẻ rúng bởi chỉ bằng bốn bát bánh đúc, một câu nói đùa, hai hào dầu... để làm vợ người ta. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng sau câu đùa của Tràng. Nói đúng hơn là thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Nhưng có lẽ bởi Thị cảm được cái chân thật, cái tốt bụng của anh Tràng,


    Tràng có lẽ là duyên phận, xuất hiện như chiếc phao cứu sinh với đời Thị. Cho nên hành động theo Tràng của thị, một mặt xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Nhưng ta còn thấy trong đó, một mong muốn tựa nương, một bến bờ sau những trôi dạt của số phận. Đều là những con người đáng thương, bị số phận đưa đẩy vào chốn đường cùng. Mị và người vợ nhặt cùng hiện lên là những người phụ nữ đầy chủ động, không chấp nhận thực tại, bằng hành động mà thay đổi số phận mình. Tuy nhiên, hai nhân vật cũng có những điểm khác biệt, hành động của Mị là hành động thuộc phần cuối đoạn trích, đó là hành động đấu tranh, vùng lên giải phóng cuộc đời mình. Còn với cô vợ nhặt, hành động đó là hành động mang tính khơi màn cho tác phẩm, để bao hệ quả sau đó được đẩy đưa đến, đó là hành động thể hiện khát khao sống, bám lấy sự sống mãnh liệt.


    Nếu như trước cách mạng, các nhân vật thường rơi vào bế tắc, vào bi kịch thì sau cách mạng, họ

    đến được với sự giải phóng, với ánh sáng tự do. Ta thấy cái kết của nhân vật Chí Phèo hay chị Dậu hoàn toàn đối lập với cái kết của Mị, của A Phủ, Vợ nhặt, Tràng,...Thông qua hai tác phẩm, các tác giả đã khẳng định đề cao khát vọng sống, niềm hi vọng, niềm tin vào cuộc sống, đều mang tính phát hiện những vẻ đẹp của con người, những vẻ đẹp không thể bị bất cứ một thực cảnh phũ phàng nào có thể làm tiêu mất đi, trái lại lại càng toả sáng hơn.


    Có thể nói, nhân vật Mị và người vợ nhặt là hai nhân vật điển hình, tiêu biểu cho những kiếp người cùng khổ, bị cuộc sống đày đọa, làm cho đổi thay. Thế nhưng, bên trong tâm hồn lúc nào cũng tiềm ẩn một nội lực sinh tồn, một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Có lúc nó chìm lắng xuống và hiện thực quá khắc nghiệt, tàn nhẫn. Thế nhưng, chỉ cần có cơ hội là nó mạnh mẽ trỗi dậy chiến thắng tất cả, đưa nhân vật đi lên, tìm về với sự sống đúng nghĩa. Qua hai nhân vật, Kim Lân và Tô Hoài đã có những cống hiến lớn trong phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của cuộc sống, tạo động lực thúc đẩy con người không bao giờ đầu hàng trước số phận và nghịch cảnh. Phải chăng, đó cũng là tiếng nói của cách mạng, của chủ nghĩa nhân đạo đã tồn tại mấy nghìn năm qua của dân tộc ta.

    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong
    Bài văn cảm nhận về hành động của nhân vật Mỵ chạy theo A Phủ trong "Vợ chồng A Phủ" số 7




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy