Top 9 Bài cảm nhận hay nhất về hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Giọt nước mắt của A Phủ là chi tiết đặc biệt trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nó đã tác động mạnh mẽ và thức tỉnh sức sống, sức phản kháng bên trong con người ... xem thêm...Mị. Phân tích ý nghĩa giọt nước mắt của A Phủ là một câu hỏi thường gặp trong đề thi. Cùng Toplist tham khảo một số tài liệu sau nhé:
-
Tô Hoài là nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ với nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Tiêu biểu trong đó có thể kể đến truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, thông qua câu chuyện về đôi vợ chồng người H’ Mông, tác giả Tô Hoài đã khắc họa thành công bi kịch của người nông dân trong xã hội xưa. Dưới sự áp bức của cường quyền, con người không chỉ bị chà đạp về nhân phẩm mà còn bị tước đoạt tự do, hạnh phúc. Chi tiết giọt nước mắt của A Phủ gần cuối tác phẩm là chi tiết đắt giá khi không chỉ thức tỉnh sức sống, sự phản kháng trong Mị mà còn mang nhiều ý nghĩa lớn lao.
Chi tiết văn học hiểu một cách đơn giản nhất đó chính là những biểu hiện, những tình tiết góp phần xây dựng lên cốt truyện, đồng thời thể hiện được tư tưởng chủ đề của truyện. Đối với những tình tiết đặc sắc trong tác phẩm còn có thể chứa đựng được những cảm xúc lớn lao, những tư tưởng sâu sắc mà tác giả muốn truyền tải trong tác phẩm của mình.
Giọt nước mắt A Phủ là một trong những chi tiết đặc sắc nhất trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Giọt nước mắt của a Phủ không chỉ thể hiện cảm xúc của nhân vật khi cái chết đang cận kề mà còn mang sức mạnh của sự thức tỉnh bởi chính giọt nước mắt ấy đã đánh thức sức sống tiềm tàng, khả năng phản kháng tưởng chừng đã ngủ quên bên trong con người của Mị.
A Phủ là chàng trai khỏe mạnh, một người lao động giỏi, chỉ vì đánh nhau với con trai Thống Lí mà A Phủ buộc phải trở thành người ở trừ nợ cho gia đình thống lí. Sống trong cuộc sống của con trâu con ngựa nhưng A Phủ không bao giờ bi quan trước cuộc đời, anh vẫn nỗ lực vươn lên, làm việc chăm chỉ để mang đến những lợi ích cho gia đình thống lí. Tuy nhiên, do sơ ý để hổ bắt mất một con bò của thống lí mà A Phủ bị trói đứng ở giữa sân, bỏ mặc đói rét suốt mấy ngày liền mà theo nhận thức của Mị thì chỉ đêm nay, đêm mai người kia sẽ chết, một cái chết đầy đau đớn.
Cũng giống như A Phủ, Mị là cô gái xinh đẹp nhưng gia cảnh nghèo hèn nên đã phải trở thành con dâu trừ nợ cho gia đình thống lí. Xét về địa vị, Mị là con dâu của Thống lí Pá Tra, vợ của A Sử nhưng trong thực tế Mị chỉ là một người ở đợ không hơn không kém, cô phải làm việc quần quật ngày đêm như con trâu con ngựa. Sống lâu trong sự đày đọa đã khiến Mị mất đi khả năng phản kháng, sống cam chịu như con rùa nuôi trong xó cửa. Trong những ngày A Phủ bị trói đứng ngoài sân, đêm nào Mị cũng thức dậy thổi lửa hơ tay, cũng chính hoàn cảnh này đã làm cho Mị chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ. Sống trong gia đình thống lí, Mị thường xuyên chứng kiến cảnh những con người bất hạnh bị trói đứng đến chết, do đó lúc đầu khi thấy A Phủ phải trói đứng ở sân Mị chỉ dửng dưng, vô cảm.
Sau mọi nỗ lực tự giải cứu mình nhưng không thành, trong nỗi bất lực, tuyệt vọng đến cùng A Phủ đã khóc. Đúng lúc ấy Mị thức dậy thổi lửa hơ tay và chứng kiến cảnh giọt nước mắt đang bò trên hõm má của A Phủ. Giọt nước mắt ấy có sự tác động mạnh mẽ đến nhận thức của Mị, mang đến những thay đổi lớn bên trong người đàn bà bất hạnh ấy.
Giọt nước mắt của A Phủ đã mang đến sự thay đổi lớn lao trong tâm lí của Mị. Mị nhớ lại mình cũng từng bị trói đứng như thế, sợi dây thít chặt vào thân thể, Mị khóc nhưng cũng không thể tự lau nước nước. Nhớ đến tình cảnh của bản thân, Mị đã đồng cảm sâu sắc với nỗi cô đơn và tuyệt vọng của A Phủ.
Từ mối đồng cảm với A Phủ, Mị càng hiểu sâu sắc hơn cuộc sống đọa đầy của hiện tại cũng như cảm nhận đến tận cùng sự độc ác của cha con thống lí “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết…Chúng nó thật độc ác”. Mị thấy rõ được sự nguy khốn vô lí, tàn nhẫn đang ập xuống A Phủ mà cái kết chỉ có một, đó là cái chết “ chỉ đêm nay, đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Tấm lòng trắc ẩn bên trong Mị đã thức dậy, Mị đã có hành động vô cùng liều lĩnh, cắt dây cởi trói cho A Phủ.
Như vậy, nếu trong đêm tình mùa xuân, sức sống bên trong Mị được đánh thức bởi tiếng sáo và tiếng gọi bạn tình thì giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức sức sống tiềm tàng bên trong con người Mị, Mị đã giải cứu cho A Phủ đồng thời giải cứu cho chính mình khỏi cuộc sống đọa đầy, không có tự do để hướng đến cuộc sống hạnh phúc, tươi sáng.
-
Tô Hoài là nhà văn tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam. Sáng tác của Tô Hoài sau cách mạng tháng tám có rất nhiều. Ông được xem là người có số lượng tác phẩm đồ sộ đạt kỉ lục nhất trong kho tàng văn học Việt Nam. “Vợ Chồng A Phủ” đã khắc họa thành công tấn bi kịch cuộc sống của người nông dân miền Tây Bắc xa xôi. Chi tiết “giọt nước mắt a Phủ” đã để lại cho ta những suy nghĩ.
Chi tiết văn học được hiểu là những biểu hiện nhỏ nhặt, nhưng lại mang sức chứa lớn về cảm xúc và mang nặng được tư tưởng của tác giả. Qua đó tạo ra được sức hấp dẫn trong lòng người đọc. Chi tiết đóng vai trò vô cùng quan trọng trong một tác phẩm văn học, nhờ nó tạo ra tính hình tượng, tính thẩm mĩ cho tác phẩm. Chi tiết còn là bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ, mà qua đó thể hiện được những quan niệm, suy nghĩ riêng của tác giả về cuộc sống vô thường vô cùng này. Chi tiết còn góp phần làm phát triển cốt truyện là bước ngoặt quan trọng trong những hành động của nhân vật. Các chi tiết đều đóng vai trò tìm tòi và phát hiện của tác giả trước đời sống.
Hiểu về chi tiết như vậy, ta càng thấy được giá trị của chi tiết trong tác phẩm vợ chồng A Phủ. Viết về cuộc sống nghèo khổ của người nông dân, A Phủ vốn là một con trai lực lưỡng và khỏe mạnh. Không cam chịu số phận mà vượt lên trên hoàn cảnh tìm cuộc sống. Không may, anh lại bị bắt vì đánh con nhà quan – A Sử. Cuộc đời tự do của A Phủ bị bắt và bị giam hãm dưới tư tưởng phong kiến bảo thủ hủ tục của thống lí Pá Tra. Hắn dùng sợi dây mây thít chặt lấy A Phủ. Hình ảnh giọt nước mắt được cảm nhận qua cái nhìn của Mị.
Giọt nước mắt A Phủ chảy xuống, là giọt nước mắt của một chàng trai khỏe mạnh một chàng trai tưởng như không biết sợ là gì nhưng bây giờ lại khóc? “hai mắt A Phủ vừa mở, một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đó là giọt nước mắt vô cùng hiếm hoi mà ta tưởng như không thể ngờ tới. Giọt nước mắt ấy thể hiện một nỗi đau đến tột cùng đau đớn không chỉ bởi sự thít chặt của những sợi dây mây mà có lẽ còn là sự đáng thương A Phủ đang nghĩ tới số phận của mình. A Phủ khóc, nhưng đó không hẳn là sự khóc của cam chịu giọt nước mắt ấy là của con người nghĩa khí và quật cường, lấp lánh lên những hi vọng được sống khát khao được sống. Đó cũng là sự tố cáo tội ác của phong kiến lúc bấy giờ.
Chi tiết giọt nước mắt A Phủ đã cho ta thấy cuộc sống và hoàn cảnh đáng thương của người dân lúc bấy giờ. Tố cáo chế độ phong kiến và nổi bật tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài.
-
Với sự nghiệp đồ sộ chứa rất nhiều tác phẩm vô giá, Tô Hoài đã trở thành một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Nằm trong những tác phẩm vô giá đó có một truyện ngắn khá nổi bật mang tên “Vợ chồng A Phủ”. Qua câu chuyện kể về đôi vợ chồng người H’Mông. Tô Hoài đã thành công trong việc khắc họa bi kịch của người nông dân – giai cấp có ít tiếng nói – trong xã hội xưa.
Khi bị đè nén dưới cường quyền, không những nhân phẩm mà tự do, hạnh phúc của họ cũng bị chà đạp, bị nắm lấy và họ không hề có quyền quyết định. Trong truyện có một chi tiết rất đắt giá. Đó chính là giọt nước mắt của A Phủ ở đoạn gần cuối của tác phẩm. Chi tiết này không những đã đánh thức sức sống, sự phản kháng tiềm tàng nằm sâu trong Mị mà còn đem lại những ý nghĩa to lớn khác.
Một trong những chi tiết đắt giá nhất ở truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” chính là giọt nước mắt của A Phủ. Giọt nước mắt ấy không những giúp người đọc cảm nhận được sự đau khổ khốn cùng, sự tuyệt vọng, bất lực khi cái chết đang kè cổ A Phủ. Mà còn là thứ đã đánh thức sức sống tiềm tàng đồng thời cũng là lòng trắc ẩn, khả năng phản kháng tưởng như đã biến mất từ lâu sâu trong con người Mị.
Vốn là một chàng trai khỏe mạnh, chăm chỉ, cần cù, lao động tốt, nhưng do bản tính thẳng thắn. Không chịu sự ức hiếp của những kẻ cậy quyền nên A Phủ đã đánh nhau với con trai thống lí. Vì thế nên A Phủ bị ép phải làm người ở cho gia đình họ để trừ nợ. Phải sống một cuộc đời không khác gì của con trâu, con ngựa nhưng A Phủ không vì thế mà chán nản, bi quan.
Anh vẫn giữ vững bản chất chăm chỉ của mình, luôn nỗ lực và đem lại cho nhà thống lí không ít lợi lộc. Vậy mà, chỉ vì vô tình để hổ săn mất một con bò của nhà thống lí, A Phủ bị bắt trói đứng ở ngay giữa sân. Không những thế, anh còn bị bỏ mặc giữa những đêm lạnh, bị bỏ đói mất nhiều ngày liền đến nỗi khi Mị nhìn thấy A Phủ. Mị đoán chỉ đêm nay, đêm mai là anh sẽ gặp phải cái chết đầy đau khổ.
Tương tự hoàn cảnh với A Phủ, Mị vốn là một cô gái xinh đẹp. Nhưng, vì nhà quá nghèo, nợ nần nên phải trừ nợ bằng cách sang làm con dâu nhà thống lí. Tưởng như được làm dâu nhà thống lí, vợ của A Sử là sẽ được sung sướng nhưng thực ra, Mị không khác gì người ở đợ là bao, thậm chí còn không bằng con trâu, con bò.
Mị luôn phải cắm mặt cắm mũi làm việc cả ngày lẫn đêm. Bị đày đọa quá nhiều và quá lâu, Mị bỗng quen với điều đó và dần dà mất đi khả năng phản kháng. Và rồi, Mị đã chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ khi anh bị trói đứng ngoài sân qua những ngày Mị dậy thổi lửa hơ tay.
Vì đã quá quen với cái cảnh những con người đáng thương bị trói đứng đến chết ở nhà thống lí nên khi thấy A Phủ Mị cũng không có cảm xúc gì, chỉ dửng dưng. A Phủ đã cố gắng tìm cách tự cởi trói thoát thân nhưng không thể nào thực hiện được. Bất lực, tuyệt vọng, giọt nước mắt của người đàn ông trưởng thành, mạnh mẽ ấy đã lăn trên khuôn mặt của anh. Và đúng vào lúc đó, Mị thức dậy thổi lửa thì thấy cảnh tượng đó. Giọt nước mắt đang bò trên hõm má của A Phủ đã khiến nhận thức của Mị có một sự xoay chuyển mạnh mẽ. Nó đã đem lại sự thay đổi to lớn sâu bên trong người đàn bà bất hạnh ấy.
Thật vậy, giọt nước mắt đó của A Phủ thực sự đã khiến tâm lí Mị thay đổi lớn. Lúc ấy, Mị đã hồi tưởng lại cái cảnh chính bản thân cũng bị trói đứng như vậy, bị dây trói thít chặt, khóc cũng không tài nào lau nước mắt được. Nhớ về hoàn cảnh của bản thân như vậy, Mị đã có sự đồng cảm sâu sắc với A Phủ.
Và từ mối đồng cảm ấy, Mị còn hiểu hơn ai hết cái cuộc sống đầy đọa cũng như sự độc ác của hai cha con nhà thống lí: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết… Chúng nó thật độc ác”. Cảm nhận rõ được sự nguy kịch, khốn khổ đầy tàn nhẫn đang ập lên đầu A Phủ, Mị đoán được rằng cái kết dành cho A Phủ sẽ là cái chết “chỉ đêm nay, đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”.
Vì thế, sâu trong thân tâm Mị, có gì đó đã thức dậy. Đó chính là lòng trắc ẩn. Nhờ tấm lòng yêu thương những người có cùng hoàn cảnh như mình đó. Mị đã liều mình cắt dây cởi trói giúp A Phủ trốn thoát khỏi kiếp đọa đày anh đang phải gánh chịu.
Vậy là, sức sống sâu bên trong Mị đã được đánh thức bởi tiếng sáo và tiếng gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân. Còn sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong con người Mị thì được thức dậy bởi chính giọt nước mắt của A Phủ.
Nhờ đó, Mị đã liều lĩnh giải cứu cho A Phủ cũng như giải cứu chính bản thân mình rời khỏi cuộc sống như tù đày. Không một chút tự do để rồi hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn và tươi vui hơn.
-
Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Đó là nét tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó. Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.
Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái đang hoà nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.
Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay "dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác.
Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, "chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cài nhà này". Lí trí giúp Mị nhận ra "Chúng nó thật độc ác". Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khoẻ mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay dắng cho thân phận của mình: "Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi".
Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ "có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ.... Mị phảng phất nghĩ như vậy". Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư?
Như vậy, chứng kiến "dòng nước mắt lấp lánh" của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ, sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng... Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng "đi ngay" rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: "A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất". Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến...
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị.
Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.Với truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" nói riêng và tập "Truyện Tây Bắc" nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này.
Tác phẩm "Truyện Tây Bắc" xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và "Vợ chồng A Phủ" thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.
Đối với riêng em, truyện "Vợ chồng A Phủ" giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hoá tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn "Đời thừa".
-
Tô Hoài là nhà văn tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam. Sáng tác của Tô Hoài sau cách mạng tháng tám có rất nhiều. Ông được xem là người có số lượng tác phẩm đồ sộ và đạt kỉ lục ấn tượng nhất trong kho tàng văn học Việt Nam. "Vợ chồng A Phủ" đã khắc họa thành công tấm bi kich cuộc sống của người nông dân miền Tây Bắc xa xôi. Chi tiết "giọt nước mắt A Phủ" đã để lại cho ta những suy nghĩ và biết bao cảm xúc.
Giọt nước mắt của A Phủ là một trong những chi tiết đắt giá. Nó là một tình tiết giúp cốt truyện trở nên hấp dẫn đồng thời thể hiện được tư tưởng chủ đề của truyện. Đối với những tình tiết đặc sắc trong tác phẩm nó còn chứa đựng một giá trị lớn lao, mang những tư tưởng sâu sắc mà tác giả muốn truyền tải trong tác phẩm của mình.
Giọt nước mắt A Phủ là một trong những chi tiết đặc sắc nhất trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Giọt nước mắt của A Phủ không chỉ thể hiện được cảm xúc của nhân vật khi cái chết đang cận kề mà còn mang sức mạnh của sự thức tỉnh bởi chính giọt nước mắt ấy đã đánh thức sức sống tiềm tàng, khả năng phản kháng tưởng chừng đã ngủ quên bên trong con người của Mị.
Vốn là một chàng trai khỏe mạnh, chăm chỉ, cần cù lao động tốt, nhưng do bản tính thẳng thắn, không chịu được sự ấp hiếp của kẻ cậy quyền nên A Phủ đã đánh nhau với con trai thống lí. Vì thế nên A Phủ bị ép phải làm người ở cho gia đình họ để trừ nợ. Phải sống một cuộc đời không khác gì con trâu con ngựa nhưng A Phủ không vì thế mà chán nản, bi quan.
Anh vẫn giữ vừng bản chất chăm chỉ của mình, luôn nỗ lực đem lại cho nhà thống lí không ít lợi lộc. Vậy mà, chỉ vì vô tình để hổ săn mất một con bò của nhà thống lí. A Phủ bị bắt trói đứng ở ngay giữa sân. Không những thế, anh còn bị bỏ mặc giữa những đêm lạnh, bị bỏ đói, mất nhiều ngày liền đến nỗi khi Mị nhìn thấy A Phủ. Mị đoán chỉ đêm nay, đêm mai anh sẽ gặp phải cái chết đầy đau khổ,
Giọt nước mắt của A Phủ đã mang đến sự thay đổi lớn lao trong tâm lí của Mị. Mị nhớ lại, mình cũng từng bị trói đứng như thế. Sợi dây đó thị chặt vào thân thể, Mị khóc, nhưng cũng không thể tự lau nước mắt. Nhớ đến tình cảnh của bản thân, Mị đã đồng cảm sâu sắc với nỗi cô đơn và tuyệt vọng của A Phủ.
Vậy là sức sống sâu bên trong Mị đã được đánh thức bởi tiếng sáo và tiếng gọi bàn tình trong đêm tình mùa xuân. Còn sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong con người Mị thì được thức dậy bởi chính giọt nước mắt của A Phủ.
Nhờ đó, Mị đã liều lĩnh giải cứu cho A Phủ cũng như giải cứu chính bản thân mình rời khỏi cuộc sống như tù đày. Không một chút tự do để rồi hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn và vui tươi hơn.
-
Là thế hệ vàng làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất cho nền văn học thế kỷ 20, Tô Hoài được ví như “Hạt ngọc của văn học”. Những sáng tác của ông được nhà phê bình Phạm Văn Nguyên nhận xét rằng “sự nghiệp văn chương của Tô Hoài là một kho báu’’. Khi khám phá kho báu ấy, ta không thể không nhắc đến tập Truyện Tây Bắc mà nổi bật trong đó là ‘viên kim cương’ vợ chồng A Phủ. Thông qua câu chuyện về đôi vợ chồng người H’Mông, Tô Hoài đã đưa người đọc đến với miền núi Tây Bắc, từ đó giúp họ cảm nhận được những bi kịch, những áp bức mà người dân nơi đây phải gánh chịu trong xã hội xưa. Một trong những ‘chi tiết làm nên hạt bụi vàng vàng của tác phẩm’ gây cho người đọc ấn tượng sâu sắc có lẽ là chi tiết giọt nước mắt của A Phủ. Giọt nước mắt ấy không chỉ thức tỉnh sức sống trong con người Mị, mà nó còn mang nhiều ý nghĩa lớn lao khác.
Chi tiết của văn học đơn giản là những biểu hiện, những tình tiết góp phần xây dựng nên cốt truyện, đồng thời nó cũng thể hiện được tư tưởng chủ đề của truyện. Đối với những chi tiết đặc sắc trong tác phẩm còn chứa đựng được những cảm xúc lớn lao, những tư tưởng sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm vào trong đó.
Chi tiết giọt nước mắt của A Phủ được xem là một trong những chi tiết đặc sắc nhất của tác phẩm. Giọt nước mắt đó nó không chỉ thể hiện sự bất lực của chàng trai đang cận kề ranh giới cái chết, mà nó còn là tác nhân đánh thức sức sống tiềm tàng và khả năng phản kháng tưởng chừng đã ngủ sâu trong con người Mị.
A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh,được xem như người con của núi rừng đại ngàn Tây Bắc. Anh mồ côi cha, mẹ từ bé, bị dân làng bán cho người dưới núi. Nhưng với tính gan bướng của mình, anh đã trốn và lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, chẳng mấy chốc A Phủ cũng lớn, có thể săn bò tót, cày giỏi, rất được nhiều gái làng mê. Người ta còn nói với nhau rằng ‘đứa nào lấy được A Phủ như được con trâu tốt trong nhà, chả mấy chốc mà giàu’ nhưng với chế độ phong kiến, với cái gọi là luật lệ làng một chàng trai khỏe như vậy nhưng cũng không đủ điều kiện để có thể lấy vợ. Tết đến tuy chẳng có quần áo mới như những chàng trai khác, nhưng anh cũng theo những chàng trai làng đem sáo, khèn, quả pao đi kiếm người yêu. Có lẽ, cuộc đời A Phủ sẽ là những chuỗi ngày sống tự do, vô tư nếu anh không đánh nhau với A Sử con trai của nhà thống lí Pá Tra. Chính sự việc này đã đưa cuộc đời anh sang một trang mới, A Phủ trở thành ‘nô lệ không công’ cho nhà thống lí. Thế nhưng anh vẫn làm việc chăm chỉ, vẫn lạc quan yêu đời. Tuy nhiên, do một lần mải mê bẫy nhím đã để hổ bắt mất một con bò của thống lí mà A Phủ phải chịu cảnh bị trói ở cây cột trong góc nhà, bị bỏ đói và chịu rét mấy ngày liền.
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa chắc Mị cũng chết héo. Mấy đêm nay, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A Phủ “Là cái xác chết đứng đấy Mị vẫn thế thôi”. Có lẽ, tâm hồn Mị giờ đây đã bị tê liệt, với Mị không còn có cái gọi là tình thương hay sự đồng cảm. Có hôm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy nó lại đánh Mị, mặc dù bị đánh như vậy nhưng đêm hôm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm hôm trước.
Lúc ấy đã khuya, như thường lệ Mị lại ra thổi lửa hơ tay. Ngọn lửa bùng lên, Mị trông sang, thấy “Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đem xám lại”. Có lẽ, đó chính là giọt nước mắt của sự bất lực, bất lực trước cái chết, trước sự vô lý của chế độ phong kiến đã dồn những người nông dân đến bước đường cùng. Lúc đấy, phải chăng A Phủ đã khuất phục và cam tâm chờ chết. Nhưng điều mà A Phủ không ngờ tới là chính giọt nước mắt đấy đã đưa cuộc đời anh sang một bước ngoặt khác.
Giọt nước mắt của A Phủ không chỉ cho thấy sự bất lực của chính bản thân nhân vật. Mà còn là tác nhân thức tỉnh sức sống tiềm tàng tưởng chừng đã bị lãng quên bên trong con người Mị. Từ giọt nước mắt của A Phủ, Mị nghĩ về giọt nước mắt của chính mình. Mị nhớ lại bản thân mình một năm trước cũng bị A Sử trói đứng như thế. Mị đau, Mị khóc “Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”nhưng chẳng có ai quan tâm Mị cả. Từ nỗi đau của chính mình, Mị như thấu hiểu, đồng cảm cho nỗi đau của A Phủ. Mị nghĩ về người đàn bà cũng từng bị trói đứng đến chết trong cái nhà này. Có lẽ, lúc này trong Mị đã phần nào hiểu được số phận của người phụ nữ trong nhà thống lí nói riêng và trong chế độ phong kiến này nói chung. Đó là họ không có cái quyền phản kháng, cái quyền tự do, hạnh phúc của một con người. A Phủ được xem như là tấm gương phảng phất hình bóng Mị ở trong đó. Lần đầu tiên, Mị nhận thức được rằng “Chúng nó thật độc ác”, lần đầu tiên Mị nhận ra rằng sự tàn bạo, bất công và vô lý của những cái gọi là “Lệ làng” nói riêng và chế độ phong kiến nói chung đang ập lên vai những con người “Thấp cổ bé họng” mà trước đó dù có bị bắt làm việc như con trâu con ngựa, bị đối đãi một cách tàn bạo Mị cũng chưa nhận ra được.
Mị cảm nhận được sự nguy khốn vô lý, sự tàn nhẫn mà chàng trai trẻ trước mặt Mị đang phải chịu đựng, mà chỉ có một con đường đó chính là cái chết “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Lúc này, sâu trong thâm tâm Mị đã có cái gì đó trỗi dậy, Mị tự thắc mắc lòng mình, cũng như sự thắc mắc của tác giả “Người kia việc gì phải chết”. Chính sự thắc mắc, phân vân ấy của Mị như là một thông điệp tác giả gửi gắm nhằm lên án sự bất công, vô lý mà chế độ phong kiến hà khắc đã đè nặng lên những người nông dân vô tội.Chính giọt nước mắt của A Phủ, đã thức tỉnh sự yêu thương cũng như lòng đồng cảm bên sâu trong tâm hồn cô gái trẻ tưởng chừng như đã bị tê liệt. Lúc đầu Mị còn có sự đấu tranh tâm lý liệu khi cứu A Phủ rồi, cha con nhà thống lý có để yên cho Mị hay không.Nhưng có lẽ, lòng yêu thương trắc ẩn đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Thời khắc Mị giải thoát cho A Phủ cũng chính là Mị đang giải thoát bản thân mình khỏi sợi dây vô hình tưởng chừng như sẽ theo Mị đến lúc Mị “rũ xương ở đây”.
Như vậy, chi tiết giọt nước mắt của A Phủ như “ánh sáng” soi đường cho hai nhân vật đến với một cái kết hạnh phúc hơn. Nó không chỉ đưa cuộc sống của một chàng trai tưởng chừng như chỉ đứng ở góc bất lực chờ cái chết đã rẽ sang một trang mới với những hy vọng ở tương lai phía trước. Mà còn thức tỉnh sức sống tiềm tàng của cô gái “đầy xuân, đầy tình” từ người đàn bà “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bên cạnh đó, qua chi tiết giọt nước mắt của A Phủ. Tô Hoài lên án,tố cáo chế độ phong kiến miền núi hà khắc đã đẩy những chàng trai cô gái đang tự do phơi phới sắc xuân, tràn đầy tình yêu và nhiệt huyết thành những con người con người dửng dưng vô cảm, bị tê liệt về tâm hồn lẫn thể xác. Mặc khác, tác giả cũng gửi gắm những thông điệp “dù trong những hoàn cảnh khốn khó, dù bị dồn đến bước đường cùng. Nhưng sức sống của con người không mất đi mà vẫn âm ỉ cháy. Chờ đến “thời cơ” sức sống ấy sẽ bùng phát lên mạnh mẽ”.
Chi tiết giọt nước mắt là một trong những chi tiết được nhiều nhà văn vận dụng như giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu hay giọt nước mắt của Chí Phèo, Lão Hạc trong những tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao. Nhưng có lẽ đem đến cho người đọc nhiều cảm xúc nhất có lẽ là chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Nếu như giọt nước mắt của A Phủ là sự bất lực của chàng trai đang cận kề cái chết. Thì giọt nước mắt của bà cụ Tứ lại là giọt nước mắt của nỗi lòng người mẹ.
Trong truyện ngắn, giọt nước mắt của bà cụ Tứ được Kim Lân được tái hiện lại một cách đầy sinh động và mang những ý nghĩa nhất định. Chi tiết giọt nước mắt lần thứ nhất thể hiện cho của sự tủi hờn, của sự trách móc bản thân khi không làm tròn bổn phận của người mẹ. Đến một đám cưới nhỏ cũng không lo được cho đứa con trai của mình.Còn giọt nước mắt thứ hai lại là giọt nước mắt của sự hạnh phúc, sự vui mừng của người làm mẹ trước tình cảm mặn nồng của gia đình con trai.
Có thể thấy, nếu tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân đánh thức sức sống tiềm tàng trong Mị. Thì giọt nước mắt của A Phủ như là “giọt nước tràn ly” làm bùng nổ sức sống đang cháy im ỉm trong con người Mị. Để từ đấy, Mị đã vùng lên giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho bản thân mình khỏi sự áp bức, bất công của chế độ phong kiến. Mở ra cho bản thân và mở ra cho cả A Phủ một “con đường” ở đấy con người có thể yêu, có thể hạnh phúc và quan trọng là có được sự tự do. Bên cạnh đó, qua “hạt bụi vàng” này Tô Hoài cũng đã thể hiện được giá trị hiện thực cũng như giá trị nhân đạo mà nhà văn muốn gửi gắm tới người đọc. -
Tô Hoài, một tượng đài trong văn học Việt Nam, đã để lại một di sản sáng tác ấn tượng với nhiều tác phẩm có giá trị lớn, trong đó truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" là một biểu hiện rõ nét. Tác phẩm này của ông đã thành công trong việc khắc họa bi kịch của người nông dân H'Mông trong xã hội trước đây. Dưới sự áp bức của quyền lực, con người không chỉ bị tổn thương về phẩm chất nhân bản mà còn mất mát tự do và hạnh phúc. Chi tiết đặc biệt về giọt nước mắt của A Phủ ở cuối tác phẩm không chỉ làm thức tỉnh sự sống và tinh thần đối kháng trong nhân vật Mị, mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Chi tiết văn học, một cách dễ hiểu nhất, đó là những yếu tố và tình tiết góp phần xây dựng nên cốt truyện, đồng thời thể hiện tư tưởng và chủ đề của tác phẩm. Trong những tình tiết đặc sắc này, có thể tìm thấy những cảm xúc mạnh mẽ và tư tưởng sâu sắc mà tác giả muốn truyền đạt. Giọt nước mắt của A Phủ trong "Vợ chồng A Phủ" là một trong những ví dụ đặc biệt, không chỉ thể hiện tâm trạng khi đối mặt với tử thần mà còn đánh thức sức sống tiềm ẩn và khả năng phản kháng ngủ quên bên trong con người của nhân vật Mị.
A Phủ, một chàng trai với sức khỏe và tài năng lao động nổi bật, bị ép trở thành người ở trừ nợ cho gia đình thống lí chỉ vì một cuộc đánh nhau với con trai của Thống Lí. Mặc dù sống trong cảnh cuộc sống khó khăn, nhưng A Phủ không bao giờ chìm đắm trong tâm trạng bi quan. Anh ta liên tục cố gắng vươn lên và làm việc chăm chỉ để đem lại lợi ích cho gia đình thống lí.
Tuy nhiên, vận rủi đeo bám A Phủ khi anh mất một con bò của thống lí do sơ ý, dẫn đến việc anh bị trói đứng giữa sân, đối diện với đói rét suốt mấy ngày. Mị, một người phụ nữ xinh đẹp nhưng cũng phải chịu đựng số phận nặng nề, là con dâu của Thống lí Pá Tra và vợ của A Sử. Mặc dù có vị thế cao quý, nhưng thực tế Mị chỉ là người ở đợ không khác gì con trâu con ngựa, phải làm việc vất vả bất kể đêm ngày.
Cuộc sống đày đọa đã khiến Mị mất đi khả năng phản kháng, sống chịu đựng như con rùa nuôi trong xó cửa. Trong những ngày A Phủ bị trói đứng ngoài sân, Mị thức dậy đêm nào cũng thổi lửa hơ tay, và tình cờ chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ. Ban đầu, Mị dửng dưng và vô cảm trước cảnh tượng này, bởi cô đã quen với những bi kịch của những người bị trói đứng đến chết trong gia đình thống lí.
Sau nhiều nỗ lực tự giải cứu mà không thành công, trong tình trạng bất lực và tuyệt vọng, A Phủ bắt đầu khóc. Lúc đó, Mị thức dậy và chứng kiến giọt nước mắt trên má A Phủ, một hình ảnh mạnh mẽ ảnh hưởng đến nhận thức của cô, tạo ra những thay đổi lớn bên trong người phụ nữ bất hạnh này.
Giọt nước mắt của A Phủ không chỉ đánh thức sự sống trong Mị mà còn mang đến sự thay đổi to lớn trong tâm trạng của cô. Mị nhớ lại những khoảnh khắc bản thân bị trói đứng, sợi dây chặt vào thân thể, và cảm nhận sâu sắc nỗi cô đơn và tuyệt vọng giống như A Phủ.
Bằng mối đồng cảm với A Phủ, Mị mở rộng sự hiểu biết về sự khốn khó và đau đớn trong cuộc sống hiện tại, đồng thời cảm nhận đến sự tàn ác của cha con thống lí: "Trời ơi, chúng nó bắt trói đứng người ta đến chết... Chúng nó thật độc ác." Mị nhận thức rõ sự khốn nạn và tàn nhẫn đang đối diện với A Phủ, với kết quả dường như chỉ có một, đó là cái chết: "Chỉ đêm nay, đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết."
Tấm lòng trắc ẩn bên trong Mị bất ngờ tỉnh dậy. Mị thực hiện một hành động mạnh mẽ và liều lĩnh, cắt dây trói giải thoát A Phủ khỏi tình cảnh đau đớn. Qua đó, trong bức tranh tối tăm, Mị trở thành nguồn sáng, giải cứu không chỉ A Phủ mà còn chính bản thân mình khỏi sự giam giữ, hướng tới cuộc sống tự do và tươi sáng.
Như vậy, nếu trong đêm mùa xuân, sức sống trong Mị đã được thức tỉnh bởi tiếng sáo và gọi của tình nhân, thì giọt nước mắt của A Phủ đã gợi mở sự sống động tiềm ẩn bên trong con người Mị. Mị không chỉ là người giải thoát cho A Phủ mà còn giải thoát bản thân khỏi cuộc sống đau đớn, một cuộc sống mà tự do và hạnh phúc dường như là xa xôi và không thể đạt được. Qua tác phẩm "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã chứng minh rằng, dù bị áp bức bởi quyền lực, con người vẫn có khả năng phản kháng và tìm thấy ánh sáng giữa bóng tối. -
Nhà văn Tô Hoài, tên thật là Nguyễn Sen, là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, nổi tiếng với phong cách nghệ thuật độc đáo và sâu sắc. Phong cách nghệ thuật của Tô Hoài thể hiện rõ nét qua các yếu tố sau:
- Sự gắn bó sâu sắc với đời sống dân tộc và con người lao động:
- Tô Hoài thường viết về những con người và cuộc sống bình dị, gắn liền với nông thôn và lao động chân tay. Ông khắc họa hình ảnh người nông dân, người lao động với tất cả sự chân thực, không lý tưởng hóa, mà thể hiện họ với tất cả những mặt sáng và tối của cuộc sống.
- Tác phẩm nổi bật trong mảng đề tài này là Dế Mèn phiêu lưu ký, một tác phẩm thiếu nhi kinh điển nhưng cũng là một bức tranh sinh động về cuộc sống của những người lao động.
- Ví dụ: Trong tác phẩm Dế mèn phiêu lưu ký, Tô Hoài không chỉ xây dựng một câu chuyện phiêu lưu hấp dẫn của nhân vật Dế Mèn, mà còn khắc họa sinh động cuộc sống của những loài vật nhỏ bé như dế, bọ ngựa, kiến, chuột... Thông qua đó, ông phản ánh một xã hội thu nhỏ với những nét tính cách và mối quan hệ phức tạp, đầy màu sắc của cuộc sống nông thôn Việt Nam.
- Ngôn ngữ giản dị, sinh động và giàu hình ảnh:
- Tô Hoài sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giàu sức biểu cảm và rất đời thường. Ông có tài sử dụng ngôn ngữ địa phương, đặc biệt là tiếng nói của người dân miền Bắc, để tạo nên nét đặc trưng riêng cho nhân vật và bối cảnh.
- Văn phong của ông thường mang tính hội thoại, giúp người đọc cảm nhận được sự gần gũi và chân thật trong từng lời thoại, câu văn.
- Ví dụ: Trong truyện ngắn O chuột, Tô Hoài sử dụng ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh để kể câu chuyện về cuộc sống của một gia đình nông dân với những vấn đề thực tế và mâu thuẫn nội tại. Lối viết gần gũi, mô tả sống động các chi tiết đời thường như cảnh chợ búa, nấu ăn, trò chuyện giữa các nhân vật đã tạo nên sự thân thuộc và chân thật cho người đọc.
- Miêu tả tinh tế và sâu sắc tâm lý nhân vật:
- Tô Hoài có khả năng miêu tả tâm lý nhân vật một cách tinh tế, từ những cảm xúc giản đơn đến những suy nghĩ sâu xa. Nhân vật trong tác phẩm của ông thường hiện lên với đầy đủ những cung bậc cảm xúc, từ niềm vui, nỗi buồn, đến sự đấu tranh nội tâm.
- Ví dụ: Trong Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã khắc họa sâu sắc nỗi khổ của người dân tộc thiểu số Tây Bắc dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến, đồng thời thể hiện khát vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt của con người.
- Tư duy hiện thực và sắc sảo trong việc phê phán xã hội:
- Tô Hoài không né tránh những hiện thực khắc nghiệt của xã hội. Ông dùng ngòi bút của mình để phê phán những bất công, áp bức trong xã hội cũ, nhưng không quên tìm kiếm và tôn vinh những giá trị nhân văn, những phẩm chất cao đẹp của con người.
- Ông thường xuyên phản ánh sự phân biệt giai cấp, sự áp bức của những kẻ có quyền lực đối với người nghèo khó, từ đó khơi gợi lòng trắc ẩn và sự đồng cảm của người đọc.
- Đề tài đa dạng, phong phú:
- Tô Hoài không chỉ viết về đề tài nông thôn hay thiếu nhi, mà còn thành công ở nhiều thể loại và đề tài khác như tiểu thuyết, ký sự, phóng sự, truyện ngắn... Mỗi tác phẩm đều mang đậm dấu ấn cá nhân, thể hiện sự quan sát tinh tế và hiểu biết sâu rộng của ông về xã hội và con người.
Nhìn chung, phong cách nghệ thuật của Tô Hoài vừa mang tính hiện thực, vừa giàu tính nhân văn, giúp ông trở thành một trong những nhà văn lớn của văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông không chỉ có giá trị về mặt văn học mà còn là những tài liệu quý giá về văn hóa, xã hội Việt Nam qua các thời kỳ.
- Sự gắn bó sâu sắc với đời sống dân tộc và con người lao động:
-
Khi phân tích hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, cần chú trọng các nội dung sau:
- Tóm tắt ngắn gọn về tác giả Tô Hoài: Tô Hoài (1920-2014), tên thật là Nguyễn Sen, là một trong những nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông nổi bật với các tác phẩm về cuộc sống và con người lao động, đặc biệt là vùng nông thôn và dân tộc thiểu số. Văn phong của ông giản dị, chân thực, giàu tính nhân văn và sắc sảo trong việc phản ánh hiện thực xã hội.
- Hoàn cảnh sáng tác truyện Vợ chồng A Phủ: Vợ chồng A Phủ được Tô Hoài viết năm 1952, sau chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng Tây Bắc cùng bộ đội trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm là một phần trong tập truyện Truyện Tây Bắc, phản ánh cuộc sống khổ cực của người dân tộc thiểu số dưới ách thống trị của thực dân và phong kiến, đồng thời thể hiện khát vọng tự do và sức mạnh của con người trước hoàn cảnh.
- Tóm tắt nội dung truyện Vợ chồng A Phủ: Truyện kể về cuộc đời của Mị, một cô gái H'Mông xinh đẹp nhưng bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra, phải sống cuộc đời khổ cực và cam chịu. A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh nhưng vì để mất bò, bị nhà thống lý trói đứng để chịu đói rét. Nhờ nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị quyết định cứu anh và cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài, bắt đầu cuộc sống mới tự do hơn.
- Bối cảnh xuất hiện của giọt nước mắt: Giọt nước mắt của A Phủ xuất hiện trong tình huống A Phủ bị trói đứng ở cột, bị bỏ đói khát trong cái rét cắt da cắt thịt vì để hổ ăn mất một con bò của nhà thống lý Pá Tra. A Phủ bị trừng phạt một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo, biểu hiện của sự bất công và áp bức trong xã hội phong kiến miền núi.
- Ý nghĩa của giọt nước mắt: Nỗi đau thể xác và tinh thần: Giọt nước mắt thể hiện nỗi đau đớn tột cùng cả về thể xác lẫn tinh thần của A Phủ. Thể xác anh bị đày đọa, tinh thần anh bị tổn thương khi bị đối xử không bằng một con vật, bị hắt hủi, bỏ mặc trong cảnh khổ đau.
- Sự bất lực và cam chịu: Giọt nước mắt của A Phủ cũng là sự bộc lộ của nỗi bất lực, cam chịu trước số phận nghiệt ngã. Đó là nỗi đau của một con người bị đè nén, áp bức đến mức không còn khả năng phản kháng, chỉ có thể khóc trong sự tuyệt vọng.
- Tính nhân văn và sự đồng cảm: Giọt nước mắt của A Phủ chính là khoảnh khắc làm Mị thức tỉnh, từ đó dẫn đến quyết định cứu A Phủ và sau đó là cả hai cùng nhau trốn khỏi sự áp bức của nhà thống lý. Hình ảnh này thể hiện sự đồng cảm giữa những con người cùng cảnh ngộ, khơi gợi lòng trắc ẩn và tính nhân văn sâu sắc.
- Sự thức tỉnh của Mị qua giọt nước mắt của A Phủ: Mị vốn dĩ đã chai sạn với nỗi đau khổ của bản thân và người khác. Nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị như thấy chính mình trong hoàn cảnh của anh, điều này khơi dậy tình thương và sự đồng cảm, dẫn đến hành động quyết định cứu A Phủ. Đây là bước ngoặt quan trọng trong diễn biến tâm lý của Mị, từ một người phụ nữ cam chịu, cô dần lấy lại dũng khí để đấu tranh cho tự do.
- Giá trị hiện thực và nhân đạo: Tô Hoài thông qua giọt nước mắt của A Phủ, đã phơi bày sự tàn ác của chế độ phong kiến miền núi, đồng thời thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với số phận con người, đặc biệt là những người bị áp bức. Tác giả khẳng định khát vọng sống và tự do của con người, ngay cả khi họ bị đẩy đến bờ vực tuyệt vọng.
- Giọt nước mắt và nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật: Hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ được Tô Hoài miêu tả tinh tế, góp phần làm nổi bật tâm lý và tính cách nhân vật. Nó không chỉ là chi tiết nhỏ mà còn là biểu tượng của nỗi đau khổ và sự phản kháng âm thầm của những con người bị áp bức, đồng thời thể hiện tài năng của Tô Hoài trong việc khắc họa tâm lý nhân vật qua những chi tiết tưởng chừng nhỏ nhặt.
Nhìn chung, hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ là chi tiết nghệ thuật đắt giá, chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, góp phần làm nổi bật chủ đề và tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.