Top 5 Bài văn phân tích chuyên sâu về nhân vật trong Vợ chồng A Phủ hay nhất
“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét nhất cuộc sống và những số phận bất hạnh của ... xem thêm...những người nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Nhưng nổi bật hơn nữa chính là khát vọng, là nghị lực sống mãnh liệt của họ. Dưới đây là những bài văn học sinh giỏi phân tích chuyên sâu về các nhân vật trong Vợ chồng A Phủ hay nhất:
-
Là một nhà văn gắn bó thân thuộc với nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán của nhiều vùng miền cùng vốn ngôn ngữ phong phú, lời văn giàu hình ảnh, Tô Hoài đã lưu lại dấu ấn riêng của mình trong trái tim bạn đọc các thế hệ. “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn nổi bật trong kho tàng văn chương đồ sộ của nhà văn. Trong truyện, hình tượng nhân vật Mị là một nét đặc sắc đánh dấu sự tinh tế và tài hoa nơi ngòi bút Tô Hoài.
Nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ: “Câu chuyện Vợ chồng A Phủ là câu chuyện hoàn toàn có thực. Tức là nguyên mẫu ở ngoài đời sống. Đợt ấy tôi đi công tác từ Tà Sùa sang Phù Yên (Sơn La). Ở Tà Sùa tôi gặp một cặp vợ chồng người Mèo vào đúng dịp tết truyền thống của họ, tức khoảng tháng 11 âm lịch, trước tết Nguyên đán của ta một tháng. Tết người Mèo kéo dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ chồng nhà kia đi ăn tết từ bản này sang bản khác. Ăn tết và uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc đời anh, cuộc đời chị vợ, về chuyện thống lý ở bản anh làm tay sai cho Pháp, rất tàn ác, cho nên anh phải đưa vợ đi chạy trốn nơi khác.
Câu chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết của tôi về người Mèo làm cho cốt truyện cứ sáng tỏ dần. Và tôi bắt tay vào viết”. Có lẽ chính bởi những trải nghiệm khi được tiếp xúc với một hình mẫu thực cùng với tài năng, vốn hiểu biết về phong tục, lối sống người vùng cao mà nhà văn Tô Hoài đã chắp bút viết nên một tác phẩm xuất sắc. Hình tượng nhân vật Mị nhà văn xây dựng trong truyện đã để lại rất nhiều ấn tượng, nghĩ suy trong lòng độc giả.
Hình tượng nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài xây dựng trước hết là một cô gái với những phẩm chất tốt đẹp đáng trân trọng. Đó là một cô gái người Mèo đang độ trẻ trung, hồn nhiên, được nhiều chàng trai ngày ngày đi theo bởi tài thổi sáo rồi thì “thổi lá cũng hay như thổi sáo” làm biết bao người mê say. Đó là một cô gái đã từng được yêu, từng yêu, luôn mang trong mình trái tim cháy bỏng yêu thương, hạnh phúc. Cô gái ấy cũng vô cùng hiếu thảo với mẹ cha, chăm chỉ làm lụng cũng như ý thức rõ được giá trị của một cuộc sống tự do. Mị sẵn sàng xin cha làm lụng trên nương ngô để trả nợ thay, để không phải về làm dâu nhà thống lí Pá Tra bởi Mị hiểu rằng về đó đồng nghĩa với việc sa chân vào chốn tù đày, phải sống cuộc sống tù túng, mang danh con dâu nhà giàu nhưng phận tôi đòi hèn kém.Bên cạnh đó, nhân vật Mị trong truyện còn hiện lên với hình ảnh là một nạn nhân của áp bức bất công, của thế lực phong kiến lộng quyền. Nhiều người nhìn Mị mà ghen tị vì được làm dâu con nhà giàu lắm của nhiều nương ở bản, nhưng thực tế, cuộc sống của Mị chốn nhà quan chẳng hề dễ dàng và hạnh phúc. Là con dâu gạt nợ, ngày ngày Mị bị bóc lột sức lao động, quần quật làm việc suốt ngày đêm đến cái ngưỡng nhiều lúc chính Mị còn cảm tưởng như mình chẳng bằng thân trâu, thân ngựa ngoài kia, rằng “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”. Dần dần, sống quá lâu trong cái khổ nên Mị quen khổ rồi, thân xác, tâm hồn ấy đã dần trở nên chai sạn với nỗi đau, với cực khổ đọa đày. Từ lúc nào mà Mị bỗng sống cuộc sống lầm lũi như “con rùa nuôi trong xó cửa”.
Dẫu cho cuộc sống có bộn bề trăm nỗi khổ đau, ở nhân vật Mị ta vẫn bắt gặp một sức sống tiềm tàng, một khát khao sống, khát khao tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Khi bất ngờ trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí, bị A Sử bắt về làm vợ, Mị đã từng có ý định ăn lá ngón như là một cách để tự giải thoát mình. Trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống đất trời rạo rực ngoài kia, không khí xuân tràn lên cuộc sống muôn người dường như phần nào đã đánh thức tâm hồn Mị khỏi những tháng ngày bị vùi mình trong đau khổ. Mị nhẩm thầm theo lời bài hát, trong thoáng chốc tâm hồn ấy như được trở về với thời thanh xuân tươi trẻ, nồng nhiệt, với thời được sống tự do, hạnh phúc. Ý thức được giá trị của bản thân, của sự sống, Mị “thấy phơi phới trở lại” và rằng “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Khi bị A Sử trói không cho đi chơi, tâm hồn Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo ngoài kia, trong những cuộc chơi náo nức, rộn ràng. Và khát khao hạnh phúc, khát khao tự do trở nên mãnh liệt nhất khi Mị quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ và sau đó chạy bỏ trốn theo A Phủ.
Qua từng trang truyện “Vợ chồng A Phủ”, hình ảnh nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài khắc họa chân thực, sống động và qua số phận, nét đẹp tâm hồn ấy, ta cảm nhận được những thông điệp, những cảm xúc nghĩ suy sâu sắc mà nhà văn muốn gửi gắm tới người đọc để từ đó thêm trân trọng tác phẩm và trân quý tài năng, sự tài hoa tinh tế của tác giả.
-
Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952. Đây là truyện hay nhất in trong tập "Truyện Tây Bắc'' của nhà văn Tô Hoài (1953) và đạt giải nhất của Hội văn hóa nghệ thuật 1954 - 1955. Nhà văn muốn làm hiển hiện lại cuộc sống của người dân tộc trung thực, chí tình quý trọng tình cảm cho dù gian nan đến đâu cũng mong đợi ngày mai tươi sáng, tiêu biểu là nhân vật A Phủ. Đây là nhân vật được nhà văn xây dựng với hình tượng thật đặc biệt.
A Phủ có số phận đặc biệt vì A Phủ mồ côi cả cha lẫn mẹ, không còn người thân thích, cả làng không mấy ai vượt qua được dịch bệnh đậu mùa: anh em, bố mẹ của A Phủ chết. A Phủ đã vượt qua được sự sàng lọc nghiệt ngã của tự nhiên, A Phủ khỏe, sống sót. Có người làng đói bụng đem bắt A Phủ đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. Tuy nhiên, mới 10 tuổi nhưng A Phủ rất ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, trốn lên núi cao và lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê lần nữa cho nhà này, nhà khác, vượt qua vô vàn cơ cực, thử thách và A Phủ đã trưởng thành, trở thành một chàng trai khỏe mạnh, tháo vát, thông minh: "Biết đúc lưỡi cày, đục cuốc lại cày giỏi và đi săn bò rất táo bạo. A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa". Vì vậy con gái có nhiều người con gái mê mẩn, có nhiều người đã nói: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu. "Tuy nhiên người ta cũng chỉ ao ước thế thôi vì A Phủ mồ côi, nghèo, không có ruộng, không có bạc, không có nhà, A Phủ không thể lấy nổi vợ vì A Phủ suốt ngày cày thuê cuốc mướn, tục lệ cưới xin phép rượu cũng to hơn phép làng.
Nhà văn khắc họa nhân vật thông qua nghệ thuật kể kết hợp với miêu tả sinh động, hấp dẫn được nhìn từ bên ngoài để tạo điểm nhấn về tính cách. Nhà văn đặc biệt chú ý đến những hành động của nhân vật để giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp của A Phủ. Nhà văn đặc biệt tô đậm tính cách gan góc, mạnh mẽ, cá tính ở nhân vật A Phủ, tính cách này bộc lộc từ năm lên 10 tuổi với cuộc sống hoang dã của núi rừng và hình ảnh phải làm thuê, cuốc mướn, ở đợ đã hun đúc lên tính cách mạnh mẽ, táo bạo của A Phủ. Tính cách đó có lúc trở thành ngang tàng, sẵn sàng trừng trị kẻ xấu. Đó là lúc A Phủ cùng với trai làng đi chơi, A Phủ đã đánh A Sử. Bọn người của nhà thống lí Pá Tra quyền lực bằng trời, không ai dám đụng tới, chúng có quyền muốn làm gì thì làm. Tuy nhiên A Phủ thì không sợ, A Phủ đánh A Sử là đánh kẻ phá đám, đánh kẻ gây sự, đó là hành động dũng cảm thể hiện sự gan dạ, dũng cảm. Nhà văn đã dùng ngôn ngữ kể sinh động, hấp dẫn tái hiện một trận đánh rất sôi động. "một người to lớn…" đánh tới tấp...". Nhà văn đã miêu tả liên tiếp những hành động mạnh, nhanh, táo bạo: chạy vụt ra, vung tay, ném, xộc tốc, nắm vòng cổ, kéo dập đầu, xé vai áo, đánh tới tấp… để nhấn mạnh sức mạnh và tính cách của A Phủ.Cũng chính vì hành động đó, A Phủ đã phải trả giá đắt, trở thành thân phận kẻ ở trừ nợ vô cùng cực khổ. A Phủ quanh năm một thân một mình nào là phá nương, cuốc rừng, săn bò tót, bắt bò, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm bôn ba, rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng; đang sức thanh niên A Phủ làm phăng phăng mọi việc, đang mùa đói, do mải mê bẫy nhím, để hổ ăn mất bò, A Phủ thản nhiên vác nửa con bò bị hổ ăn thịt dở về nói với thống lí: "Tôi về lấy súng đi bắt con hổ". Đó là tính cách đặc biệt của A Phủ: A Phủ cãi lại thống lí cũng rất điềm nhiên, không sợ cái uy của kẻ ác, cái uy của nhà giàu, con hổ hay thống lí thì cũng thế thôi. Đặc biệt, ngay cả việc A Phủ tự lấy cọc và dây mây, tự mình đóng cọc để người ta trói mình chết thế cho con vật vừa bị mất thì A Phủ cũng làm rất thản nhiên. Đó chính là thể hiện tính cách của A Phủ là một người mạnh mẽ, gan góc, không sợ cả cái chết. A Phủ được Mị cởi trói, đồng cảm, khát vọng tự do, khát vọng sống, đã thôi thúc A Phủ quật sức vùng lên để chạy, thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra. Sau đó A Phủ đến Phiềng Sa được A Chân giác ngộ trở thành đội viên du kích đi theo cách mạng.
Qua Vợ chồng A Phủ nhà văn viết về cuộc đời đau khổ, tủi cực, nhục nhã của người dân nghèo ở miền núi Tây Bắc. Những người dân nghèo từ Hồng Ngài đến Phiềng Sa, từ cuộc đời nô lệ, áp bức, khổ nhục, cho đến cuộc đời tự do, hạnh phúc, từ cuộc sống tăm tối đến cuộc sống của ánh sáng, niềm vui, từ thân phận trâu bò cho nhà giàu trở thành chiến sĩ du kích chiến đấu giải phóng quê hương, giải phóng cuộc đời mình. A Phủ đại diện cho những con người không chấp nhận sự áp bức, bóc lột đã vùng dậy phản kháng quyết liệt. Đó là quá trình chuyển biến biện chứng, logic từ tự phát đến tự giác dưới ánh sáng của cách mạng
-
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đọan sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến.
Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đổng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.
Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Vì đẹp người đẹp nết nên Mị được nhiều chàng trai trong vùng để mắt tới. Tương lai của cô lẽ ra sẽ tốt lành, yên ấm, nhưng chì vì món nợ truyền đời của cha mẹ mà Mị bị bắt về làm con dầu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Tuổi xuân của Mị đã bị A Sử, gã con trai xấc xược và hung bạo tước đoạt, giày xéo.
Quãng đời Mị sống trong nhà thống lí là chuỗi dài những đọa đày, tủi nhục. Tuy danh nghĩa là con dâu nhà quan lớn nhưng thực chất Mị chỉ là đầy tớ, nô lệ, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhịn và cam chịu. Lúc mới bị bắt về, Mị phản ứng quyết liệt, định ăn lá ngón tự tử, nhưng rồi thương xót cha già, Mị không đành lòng chết. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cuộc sống không còn ý nghĩa. Cô sống mà như đã chết. Đau khổ triền miên đã làm cho Mị hóa thờ ơ, lạnh lùng. Mọi cảm xúc trong cô dường như đã chai lì. Tuy nhiên, khát vọng sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt. Trong Mị luôn tồn tại hai con người tưởng chừng đối lập: Con người bên ngoài lạnh lùng vô cảm và con người bên trong có sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt.
Tác giả lấy khung cảnh mùa xuân, đêm xuân làm nền cho diễn biến tâm trạng của Mị. Mùa xuân, đất trời tưng bừng màu sắc, rộn rã âm thanh, rất gần gũi với quãng đời hồn nhiên, vui vẻ ngày trước của Mị: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió vã rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ... Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.
Đoạn văn tả cảnh mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc với những hình ảnh đặc sắc sinh động và đầy sức sống. Màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa của các cô gái phơi trên các mỏm đá báo hiệu Tết đã đến gần. Tiếng cười ầm của đám trẻ con chơi quay trên sân chơi trước nhà. Tiếng sáo thổi réo rắt rủ bạn tình đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa... Những đêm tình mùa xuân đã tới.
Sức sống tưng bừng của vạn vật mùa xuân đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh. Tâm trạng Mị lúc này pha trộn giữa nhiều cung bậc cảm xúc: vui sướng và đau khổ, tủi nhục đến mức muốn chết và khao khát sống. Những cảm xúc ấy đang trỗi dậy, cuộn xoáy, trào dâng trong lòng Mị.
Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn trên sân chơi đầu bản thì Mị thiết tha bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình từ đầu núi vọng lại. Mị nhẩm thầm bài hát quen thuộc mà thời con gái cô hay hát:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.
Sau bao năm câm lặng trong đau khổ, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khe khẽ cất tiếng hát thầm.
Cảnh vui xuân nhộn nhịp ở đầu bản và cảnh ăn Tết ồn ào trong nhà thống lí Pá Tra đã tác động mạnh tới tâm hồn Mị, khiến cô nhớ lại thời con gái chưa xa. Lúc đầu, Mị hành động theo thói quen một cách vô thức: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Mị uống rượu mà như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng, hay là Mị cố tình uống thế cho thật say để quên đi nỗi khổ? Tuy nhiên, hành động ấy thể hiện một sự chuyển biến khác thường đang diễn ra trong tâm trạng người con gái đáng thương.
Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị đang trỗi dậy. Mị say rượu lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát Men rượu đánh thức nỗi nhớ về phần đời đã qua: Mị đang sống về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng bên tai Mị. Đấy là tiếng sáo của tình yêu rạo rực, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Dường như lúc này, Mị không còn là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pa Tra nữa mà là cô gái xinh đẹp đang uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo: Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị: Mị thổi sáo giỏi... có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng về mùa xuân tươi đẹp thời con gái, điều đó cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh. Khát vọng sống như ngọn lửa đang bừng cháy trong tâm hồn Mị.
Diễn biến tâm trạng Mị rất phức tạp: Cô đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn giữa thân phận tù túng của người con dâu gạt nợ và mong muốn được tự do đi chơi Tết của cô gái đang khao khát tự do và tình yêu. Liệu Mị có dám cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận mình để đến với những cuộc chơi vui vẻ, với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt du dương?!
Mải mê chìm đắm trong quá Khứ nên Mị tạm quên hiện tại: Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau, Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi Mị từ từ bước vào buồng. Tâm trạng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.
Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy trong lòng khiến Mị càng thêm một phẫn uất trước tình cảnh tủi nhục của mình. Bao nhiêu người có chồng mà vẫn đi chơi ngày Tết đấy thôi. A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra. Tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường:
Anh ném pao, em không bắt,
Em không yêu, quả pao rơi rồi...
Mị muốn quên thời con gái ngày trước mà không sao quên được. Tiếng sáo cứ lửng lơ trong đầu khiến cho Mị thiết tha bồi hồi.
Khi A Sử bất ngờ vào buồng để thay áo mới, tiếp tục đi rình bắt thêm con gái nhà người ta đem về làm vợ; Mị lặng lẽ, thản nhiên xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị không thèm nói một lời. Những hành động "nổi loạn" diễn ra trong khi tiếng sáo đang rập rờn trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi với tay lấy váy hoa... là Mị đã thực sự sống lại thời con gái với bao ước mơ tươi đẹp.
Mị đã bừng tỉnh; quá khứ, hiện tại đan xen trong tâm hồn Mị. Hiện tại thì tăm tối, ngột ngạt, mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lơ lửng bay ngoài đường, đánh thức quá khứ đẹp đẽ chưa xa.
Những hành động khác thường của Mị đã bị A Sử trấn áp phũ phàng. Sau câu hỏi ngạc nhiên và giận dữ: Mày muốn đi chơi à?, A sử trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Không có một dòng nào miêu tả thái độ phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, Mị chỉ im lặng, âm thầm cam chịu. Tuy vậy, ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị hoàn toàn khác, một cô Mị đang say mê sống với những kỉ niệm tình yêu. A Sử chỉ trói buộc được thể xác chứ không thể trói buộc được tâm hồn Mị.
Miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài dường như đã nhập thân vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn nâng đỡ tâm hồn Mị. Tai Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đảm chơi. Tuy Mị chưa giải thoát được thể xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm hồn: Lòng Mị bồi hồi theo tiếng sáo: Em không yêu, quả pao rơi rồi, Em yêu người nào, em bắt pao nào... Những vết dây trói đau nhức đưa Mị trở về với thực tại đau đớn, khổ nhục. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách... Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Mị đang sống với con người bên trong của mình: Chừng đã khuya... Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi nhớ đến thời điểm trai bản đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Lúc này, thực tại và quá khứ cứ đan xen vào nhau, giằng xé tâm hồn Mị. Càng nhớ tới kỉ niệm cũ, Mị càng xót xa, đau khổ, phẫn uất trước thực tại phũ phàng : Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tĩnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.
Mị bàng hoàng tỉnh... Không một tiếng động. Mị thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan... Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: Đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết, cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt.
Như thế là cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành. Mị không thể thoát khỏi địa ngục trần gian là nhà bố con tên thống lí, nhưng Mị không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi nhanh chóng tan ra, dù chưa làm thay đổi cuộc đời Mị nhưng những đợt sóng ngầm của cảm xúc đến lúc nào đó sẽ tuôn trào mãnh liệt mà bằng chứng là hành động Mị liều lĩnh cởi trói cứu A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài.
Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được. Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa! Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chổng A Phủ.
-
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông phải kể đến truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Truyện kể về những người dân nghèo miền núi dưới ách thống trị của giai cấp phong kiến với số phận vô cùng bi thảm, khốn cùng. Thế nhưng, sâu thẳm trong con người họ, ta vẫn thấy toát lên những nét đẹp, phẩm chất cao quý của tâm hồn. Một trong vẻ đẹp đó chính là sức sống vô cùng mãnh liệt và mạnh mẽ. Điều này được thể hiện chân thực và rất sống động thông qua hình tượng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.
Nhà văn Tô Hoài bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình bằng một số tác phẩm thơ và tác phẩm truyện vừa võ hiệp. Nhưng tài năng của ông thực sự tỏa sáng khi ông chuyển sang viết văn xuôi hiện thực. Tô Hoài là một nhà văn có một vốn kiến thức phong phú về các tập quán, phong tục của nhiều vùng miền trên cả nước. Các tác phẩm của ông đều có văn phong trần thuật hóm hỉnh, sinh động, với vốn từ giàu có, bình dân, thông tục. Vậy nên những câu chuyện của ông đều rất lôi cuốn và lay động người đọc. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952, sau chuyến đi thực tế của chính tác giả cùng đồng đội vào giải phóng miền Tây Bắc của Tổ quốc, được in trong tập Truyện Tây Bắc. Thông qua tác phẩm, ta có thể thấy được cuộc sống cực nhục, tăm tối của những người đồng bào dân tộc vùng cao Tây Bắc cùng hành trình tự vùng lên giải phóng khỏi ách áp bức, thống trị của bọn thực dân và chúa đất lúc bấy giờ. Đồng thời Tô Hoài còn muốn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn tràn đầy sức sống của những người dân nghèo ấy cũng như chỉ ra cho họ một con đường để được đổi đời dưới ánh sáng của Cách mạng.
Nhân vật trung tâm của câu chuyện Vợ chồng A Phủ là Mị – một cô gái người dân tộc Mông xinh đẹp, nết na và hiếu thảo. Thế nhưng cuộc sống của cô lại là một chuỗi những tháng ngày bi thảm, đau khổ. Cha mẹ Mị cưới nhau không có tiền phải vay bạc nhà thống lý Pá Tra, làm quần quật đến lúc chết cũng không đủ trả nợ. Chính vì thế, Mị bị “bắt” trở thành “con dâu gạt nợ” nhà thống lý, trở thành vợ của A Sử. Mang tiếng là “con dâu” thế nhưng thực chất Mị chỉ là thân phận nô lệ, là kiếp người ở không công trong gia đình chồng , bị đày đọa về cả thể xác và tinh thần. Mị phải làm việc triền miên suốt cả năm “tết xong thì lên núi hái thuốc phiện”, “giữa năm thì giặt đay xe đay”, “đến mùa thì đi nương bẻ bắp”, rồi lúc nào cũng có “bó đay trong cánh tay để tước thành sợi”. Mị sống kiếp con người nhưng lại chẳng bằng “con trâu, con ngựa” trong nhà, suốt năm tháng phải “vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Hơn thế, Mị còn bị đày đọa về tinh thần khi phải sống trong một cuộc hôn nhân không tình yêu “không có lòng với nhau mà phải ở với nhau”, và bị đánh đập, hành hạ, và bị tước mất quyền sống, quyền được tự do.
Thế nhưng trong tâm hồn Mị vẫn tiềm tàng một sức sống vô cùng mãnh liệt và nó đã bùng cháy lên thật mạnh mẽ trong một đêm tình mùa xuân. Đêm tình mùa xuân với âm thanh của tiếng sáo gọi bạn yêu đã đánh thức trong Mị khao khát tự do, khao khát một cuộc sống với tình yêu và hạnh phúc. Thêm vào đó là hơi rượu nồng nàn đã khiến tâm hồn tưởng như đã tê liệt của Mị lại thăng hoa trở lại, làm trỗi dậy trong tâm hồn Mị bao nhiêu là cảm xúc. Tiếng sáo và men rượu đã đưa Mị trở về những ngày xưa, những ngày còn tự do, hạnh phúc, những kỉ niệm ngọt ngào của quá khứ. Tất cả đã khiến cho lòng Mị đột nhiên bừng dậy, phơi phới niềm vui “đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Đó cũng là lần đầu tiên trong đời, Mị ý thức được quyền sống của bản thân mình. Nếu trước đây Mị nghĩ mình chẳng bằng thân “con trâu con ngựa” trong nhà thống lý thì nay, Mị đã ý thức được mình là một người con gái đang trong vòng của tuổi trẻ. Mị biết rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”. Niềm khát khao được đi chơi xuân bùng lên mãnh liệt trong tâm hồn Mị “Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi ngày Tết”. Khát khao ấy trào lên, dâng lên mãnh liệt trong tâm hồn của Mị. Điều đó chứng tỏ sâu thẳm trong trái tim tưởng như đã tê liệt của Mị là bao nhiêu những khát vọng của tự do, của tuổi trẻ, của tình yêu, hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy.
Thế nhưng, vào lúc Mị ý thức được quyền sống của mình, khao khát được đi chơi xuân thì cũng là lúc Mị đau khổ hơn bao giờ hết khi nghĩ về số phận bi thảm, tình cảnh hiện tại của mình. Cuộc sống địa ngục cùng một cuộc hôn nhân không hạnh phúc với A Sử “không có lòng với nhau mà phải ở với nhau” đã khiến Mị đau đớn vô cùng. Nỗi đau cùng sự ý thức mãnh liệt về quyền sống đã đánh thức sự phản kháng của Mị. Mị muốn tìm đến cái chết như một sự giải thoát khỏi số phận bi thảm của mình “Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Lúc nghĩ về cái chết cũng chính là lúc ý thức phản kháng của Mị mạnh mẽ hơn bao giờ hơn. Mị muốn sống phải được sống trong yêu thương, hạnh phúc, tự do nếu không thà chết còn hơn. Chúng ta không còn thấy một cô Mị cam chịu, nhẫn nhục “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa nữa” mà thấy được một cô Mị khác bừng bừng một khát vọng hạnh phúc tự do, một sức sống mãnh liệt vô cùng của tuổi trẻ. Vượt qua những suy nghĩ về cái chết, Mị mong muốn được hưởng sự tự do, được hưởng những niềm vui của tuổi trẻ trong những ngày xuân đang phơi phới này. Chính vì thế, Mị mới “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vài đĩa đèn cho sáng” rồi chuẩn bị đi chơi. Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Khát vọng tự do, hạnh phúc đã thôi thúc Mị hành động, và Mị đang quyết liệt giành giật với số phận để lấy lại hạnh phúc, tự do của mình đã bị tước đoạt ngày trước. Ngay cả trong vòng dây trói nghiệt ngã tàn bạo của A Sử thì sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị cũng không hề vơi cạn. Để Mị không thể đi chơi xuân, A Sử đã “trói đứng Mị vào cột nhà”. Vòng dây trói “thít lại, đau nhức”, tay chân, cổ của Mị “đau đứt từng mảnh thịt”, thế nhưng vòng dây trói đó chỉ trói được thể xác của Mị, còn tâm hồn của Mị vẫn đang tự do, bay bổng theo tiếng sáo. Nó “đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi” và Mị vẫn “nồng nàn tha thiết nhớ”. Tác giả đã đặt nhân vật Mị vào trong hoàn cảnh vô cùng nghiệt ngã, bị chà đạp, bị dày vò đau đớn, thế nhưng điều đó chỉ càng làm bừng lên sức sống mãnh liệt đang tiềm tàng trong con người cô.
Thông qua hình ảnh của nhân vật Mị, tác giả muốn gửi lời trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động. Những tâm hồn giàu sức sống vươn lên dù phải sóng trong bi thảm của cuộc sống, họ vẫn luôn hướng về khát khao được tự do, hạnh phúc, và không cam chịu chấp nhận số phận nô lệ. Ca ngợi vẻ đẹp của con người, ngòi bút của Tô Hoài đã mang đậm tinh thần nhân đạo cao cả. Về mặt nghệ thuật, nhà văn Tô Hoài đã xây dựng rất thành công nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân với cảm hứng lãng mạn. Ông đã thể hiện sự tài hoa của mình trong cách miêu tả nội tâm nhân vật. Thế giới nội tâm là trạng thái khó nắm bắt nhất của con người nhưng Tô Hoài đã miêu tả từng bước diễn biến tâm lý của Mị hết sức tinh tế, sâu sắc và hợp lý với quy luật phát triển tâm lý của con người.
Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là vẻ đẹp tâm hồn, sức mạnh tinh thần lớn lao của những người lao động. Trong bi thảm của cuộc sống, họ vẫn cố vươn lên, vẫn khao khát về tình yêu, hạnh phúc, không chịu khuất phục dưới cười quyền. Đó là tấm lòng nhân đạo mà tác giả muốn gửi gắm đến những số phận bất hạnh. Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp của nhà văn tài hoa – Tô Hoài.
-
Cùng sinh năm 1920 và đều là hai cây bút văn xuôi nổi tiếng, nhưng nếu Kim Lân là nhà văn “quý hồ tinh bất quý hồ đa” thì Tô Hoài lại có bút lực dồi dào không ngừng nghỉ. Đến năm 90 tuổi, ông vẫn không ngừng viết văn và để lại nhiều tác phẩm ấn tượng. Nổi bật trong số đó là “Vợ chồng A Phủ”.
Tác phẩm xoay quanh không khí và văn hóa của đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam. Cả tác phẩm là một cuộc trỗi dậy mạnh mẽ về tinh thần của người dân lao động khốn khổ chống lại áp bức bất công của giai cấp thống trị miền núi trước Cách mạng tháng Tám. Mở đầu tác phẩm câu chuyện về một cô gái: “Cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa”, “dù làm việc gì, việc nhẹ hay việc nặng cô đều cúi mặt mặt buồn rười rượi”. Nghệ thuật giới thiệu nhân vật được tác giả sử dụng là phác họa ngoại hình mà thực chất để thể hiện thế giới nội tâm. Đây là một cách giới thiệu tạo sự chú ý của người đọc. Tác giả còn sử dụng thủ pháp tương phản: đặt nhân vật ở thế trái ngược với hoàn cảnh xung quanh khiến người đọc tò mò phải đặt ra các câu hỏi: “cô ấy là ai”, “tại sao cô ấy buồn”. Mị vốn là một cô gái dân tộc xinh đẹp và tràn đầy sức sống. Nhưng hoàn cảnh đưa đẩy khiến cô gái ấy trở thành con dâu gạt nợ của nhà Thống lí Pá Tra. Món nợ của bố Mị khi cưới mẹ Mị. Đây là món nợ truyền kiếp đối với người người lao động nghèo, nó chẳng khác gì một thứ tội: “tội tổ tông”. Đối với bọn phong kiến, đây là hình thức cho vay nặng lãi đẩy người lao động nghèo vào tình trạng bị bần cùng hóa. Gia đình thống lí lợi dụng hủ tục của miền núi (tục cướp vợ) để bắt cóc Mị. Bản thân cô Mị đang hồi hộp đêm hò hẹn đầu tiên, trong lòng đang ngập tràn hạnh phúc thì rơi xuống đáy sâu của nỗi bất hạnh. Bọn chúng còn lợi dụng tục “cúng trình ma” để hoàn chỉnh việc biến một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, hiếu thảo, chăm chỉ, tự trọng và nhất là yêu tự do, khát khao tình yêu trở thành một nô lệ. Thông qua đó, tác gỉa gián tiếp tố cháo sức mạnh của cường quyền và thần quyền đang đè nặng lên cuộc sống của nhân dân đồng bào miền núi.
Cuộc sống của Mị ở trong nhà thống lí cũng là một chuỗi bất hạnh. Ban đầu Mị không chấp nhận mình trở thành con dâu gạt nợ, Mị phản kháng có phần tiêu cực: khóc, định tử tự. Nhưng vì thương cha mà mà từ bỏ ý định. Cuộc sống của Mị trong nhà thống lí bị bóc lột lao động một cách rất tàn tệ, phải làm việc như trâu, ngựa, thậm lí còn khổ hơn trâu ngựa: “con ngựa, con trâu… làm cả đêm cả ngày”. Dần dần, mị trở nên tê liệt ý niệm về thời gian. Căn buồng Mị nằm kín mít, cửa sổ lỗ vuông to bằng bàn tay trông ra bên ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Từ thời gian một ngày đến thời gian một năm, đến thời gian Mị làm con dâu nhà thống lí Mị cũng không còn xác định được nữa. Từ đó, Mị buông xuôi chấp nhận hoàn cảnh, một người tù khổ sai trung thân tàn đời, mãn kiếp là nô lệ bị giam hãm, bị trói buộc. Căn buồng Mị ở là một thứ “ngục thất tinh thần”. Đồng thời, ngôi nhà của cha con thống lí trở thành một cái thứ nhà tù không song sắt giam hãm, biến Mị thành nô lệ.
Từ một cô gái gần như hoàn toàn tê liệt, sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân. Toàn bộ âm thanh, màu sắc, sức sống của đêm tình mùa đông đã làm trỗi dậy khao khát tự do và tình yêu của Mị. Bữa cơm tết cúng ma và bữa rượi tạo nên không khí của ngày tết. Tâm hồn Mị đã sống lại, ý thức về thời gian, về quá khứ về hiện tại. Tiếng sáo xuất hiện trong đêm tình mùa xuân như ngọn gió xuân, xua tan lớp tro tàn và khơi bừng lên những đốm lửa, khơi bừng lên ánh sáng hơi ấm trong tâm hồn Mị: Mị thấy phơi phới trở lại, Mị muốn đi chơi. Càng ý thức được hoàn cảnh, Mị lại càng tuyệt vọng. Khao khát muốn sống nhưng không được sống như cách mình mong muốn khiến Mị lần thứ hai nghĩ tới cái chết. Mị thắp sáng căn buồng như thắp sáng lại cả cuộc đời mình. Không chỉ vậy còn trải chuốt lại bản thân, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa. Đây là bằng chứng rõ nhất của lòng ham sống, chứa đựng khát khao và hạnh phúc. Lập tức Mị bị A Sử trừng phạt: trói vào cột, quấn cả tóc lên cột. Ban đầu Mị còn không biết mình bị trói. Hơi rượu nồng nàn đã đưa Mị đến một cuộc dạo chơi bằng tâm tưởng: Mị thấy mình được tự do. Tiếng sáo càng vang vọng thì đối ngược lại là tiếng chân ngựa đạp vào vách. Mị thổn thức mình không bằng con ngựa. Chính trong hoàn cảnh bất cạnh ấy, Mị đã gặp được A Phủ. Hai người đều được coi là bước ngoặt của cuộc đời nhau. Vì nếu như không có Mị, A Phủ không thể được cứu sống và nếu ngược lại, Mị cũng không thể được thực sự “sống” trở lại.
A Phủ được giới thiệu là một người mồ côi, một thân một mình, bị bán xuống đồng tháp, trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A Phủ đã gan bướng, dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi, không ngại những việc nặng nhọc, nguy hiểm, là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy vậy, A Phủ vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước tìm bạn kết đôi. Cho thấy đây là một chàng trai khao khát hạnh phúc và tình yêu. A Phủ như đứa con, như cánh chim của núi rừng Tây Bắc. Nhân vật A Phủ bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh qua vụ xử kiện vô lí của gia đình nhà thống lí Pá Tra. Từ vụ xử kiện này, A Phủ từ một chàng trai tự do yêu đời trở thành một nô lệ tàn đời mãn kiếp cho nhà thống lí. Nguyên nhân cũng chính vì A Phủ dám cả gan đánh A Sử. Trong cảnh A Phủ đánh nhau với A Sử, Tô Hoài đã sử dụng một loạt động từ mạnh: chạy vụt ra, vung tay, ném, xốc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé áo, đánh tới tấp. Đọc đoạn văn này, người đọc có cảm tưởng được chứng kiến một cách đầy hả hê trận đòn của chàng trai nghèo trừng trị đám con quan cậy quyền, cậy thế.
Tuy vậy, tất cả những mơ ước khát vọng đó đã chấm dứt khi chàng trở thành nô lệ của nhà thống lí. Bản án trong phiên xử kiện này: A Phủ ban đầu bị buộc tội chết rồi lại được tha. Với thống lí Pá Tra, A Phủ sống để làm việc trả nợ (nộp vạ 100 đòng bạc trắng). Chàng trai yêu tự do ngày nào bị biến thành con nợ truyền kiếp. Tuy sự việc khác nhau nhưng cách thức bị bó buộc và hành hạ về thể xác và tinh thần của hai nhân vật vốn không liên quan là Mị và A Phủ đều giống nhau. Đó là cách bọn cầm quyền, thống trị ở các địa phương đầy đọa người dân trước khi được Cách mạng giải phóng. A Phủ bị bắt làm các công việc nặng nhọc nguy hiểm, trở thành nô lệ không công do món nợ không biết đến ngày nào mới trả hết. A Phủ cũng không dám nghĩ đến việc trốn do quyền lực khủng khiếp của nhà thống lí Pá Tra. Dù làm việc vất vả, khổ cực nhưng chỉ cần một sai lầm cũng khiến A Phủ phải chịu tội. Tai họa ập đến với A Phủ khi lỡ để hổ ăn mất một con bò. A Phủ bị trói vào cọc. Tính mạng của con người bị rẻ rúng chưa bằng một con vật. Nhà thống lí mất một con bò, nhưng A Phủ lại phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đó là một hành động dã man, mất nhân tính của bọn thống trị, coi thường mạng sống của người lao động chân chính. Nhưng cũng chính từ sự bất hạnh này đã đem đến cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và cảm xúc cho A Phủ và Mị.
Từ một cô gái vô cảm, chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, mị vẫn thản nhiên: “A Phủ là cái xác chết vẫn thế thôi”. Nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ: “lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đây là một chi tiết nghệ thuật đắt giá khơi dậy tình yêu, sức sống của Mị. Mị lập tức nhớ lại cảnh mình bị trói trong đêm tình mùa đông mà không có một ai đến cứu. Có lẽ, giọt nước mắt của con người đã chạm đến trái tim của các nhà văn và họ luôn tìm cách để khai thác nó đem đến giá trị trong tác phẩm của mình. Chúng ta thấy cuộc gặp gỡ của hai cây bút văn xuôi hiện thực nổi tiếng Tô Hoài và Nam Cao. Nam Cao cũng từng có một truyện ngắn mang tên “Nước mắt” và rất nhiều tác phẩm của Nam Cao, hình ảnh nước mắt có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Với Nam Cao, “nước mắt là giọt châu của loài người”, “nó có thể thanh lọc tâm hồn con người”. Phải chăng, khi miêu tả dòng nước mắt trên đôi gò má đã xám đen lại của A Phủ- một chàng trai người Mông gan góc, khỏe mạnh khác thường sắp trở thành một xác chết trên cây cọc nhà thống lí Pá Tra, Tô Hoài cũng nghĩ đến điều này?
Chính nhờ giọt nước mắt này mà Mị đã quyết tâm cắt dây cởi trói cho A Phủ, giải thoát cho một con người sắp phải đứng trước bờ vực của cái chết. Nhưng khi cắt dây xong, Mị lại hốt hoảng, lo sợ vì chính mình sẽ phải chết thay A Phủ, chính mình sẽ bị trói vào cây cọc đó đến chết do sự tàn ác của nhà thống lí. Mị nhanh chóng quyết định sáng suốt: “ A Phủ cho tôi đi”, “ở đây thì chết mất”. Lòng ham sống, khát vọng sống và tình yêu thương của Mị đã cứu thoát cả Mị và A Phủ khỏi “địa ngục trần gian”. Họ đã cùng nhau xây dựng hạnh phúc trên miền đất mới và giác ngộ lí tưởng Cách mạng. Từ đó họ không chỉ là vợ chồng mà còn là những người chiến sĩ kề vai sát cánh bên nhau để tiêu diệt kẻ thù trở thành một biểu tượng của đồng bào dân tộc miền Núi.
Tác phẩm “Vợ chồng” A Phủ đã để lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc: từ cốt truyện cho đến cách tác giả xây dựng nhân vật. Thông qua đó, nhà văn đã thể hiện sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người dân lao động vùng cao- niềm tự hào cho tâm hồn và phẩm chất của nhân dân Việt Nam.