Top 13 Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải hay nhất
Trần Tuấn Khải (1895 - 1983) là một nhà yêu nước đồng thời cũng là một nhà thơ nổi tiếng. "Hai chữ nước nhà" là bài thơ đầu tiên trong tập "Bút quan hoài" của ... xem thêm...Trần Tuấn Khải. Thông qua đoạn trích, tác giả đã mượn câu chuyện lịch sử có sức gợi cảm vô cùng lớn về hai cha con Nguyễn Trãi để bộc lộ tình cảm mãnh liệt với đất nước, khích lệ lòng yêu nước của đồng bào. Bài thơ sử dụng thành công thể thơ song thất lục bát, giọng điệu da diết, thống thiết và có sức gợi cảm mạnh mẽ. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm trên đã được Toplist tổng hợp trong bài viết dưới đây.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải số 1
Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào. Ở những năm đầu thế kỉ XX, ông là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu với giọng điệu bi tráng, thống thiết. Hai chữ nước nhà là tác phẩm tiêu biểu của ông.
Dưới hình thức song thất lục bát, bài thơ Hai chữ nước nhà để lại một ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng người đọc. "Tâm trạng xã hội khoảng 1926 uất ức, bi tráng, điệu lục bát du dương êm hòa không đủ, mà đòi hỏi một điệu thơ song thất lục bát để toát, để thoát, xé nỗi niềm u uất đè nặng tâm hồn" (Xuân Diệu).
Cuộc chia tay cảm động giữa hai cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan trong bài thơ là những khoảnh khắc đặc biệt, có sức lay động lớn đã được Trần Tuấn Khải sử dụng để kí thác tâm trạng, cảm xúc hiện tại, thực của mình. Lời trăng trối của người cha đối với con khi vĩnh biệt trĩu nặng ân tình, nhuốm đậm những đau thương. Tiếng lòng sầu thảm, ai oán kia khi thì trùng điệp dồn nén, khi thì da diết xót xa. Tác giả quả là đã không uổng công chút nào khi lựa chọn âm điệu phong phú của thể thơ song thất lục bát để dồn tả những tiếng lòng ấy.
Có thể hình dung bố cục của văn bản trích Hai chữ nước nhà thành ba phần. Phần 1 (8 câu thơ đầu): diễn tả tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau lòng; phần 2 (20 câu tiếp): phác họa tình cảnh đau thương tang tóc của đất nước; phần 3 (8 câu thơ còn lại): xót phận mình bất lực, người cha trao gửi cho con tâm nguyện cứu nước. Đi vào tìm hiểu từng phần ta sẽ cảm nhận được mạch xúc cảm thống thiết, chân thành của bài thơ.
Ở 8 câu thơ đầu, tác giả gợi ra bối cảnh không gian biên ải ảm đạm, hun hút và tâm trạng của nhân vật trữ tình. Bốn câu đầu là không gian chia li:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Trong cuộc ra đi không có ngày trở lại thì biên ải này chính là điểm mà Nguyễn Phi Khanh vĩnh biệt tổ quốc, quê hương, vĩnh biệt người con thân yêu của mình. Tâm trạng của kẻ sắp ra đi vĩnh viễn phủ lên khung cảnh vốn đã heo hút, ảm đạm một màu tang tóc, thê lương. Tâm sầu, cảnh sầu cũ khơi gợi lẫn nhau thành một mối sầu thảm tái tê, u hoài dằng dặc.
Đoạn thơ này tạo ra không khí chung cho toàn bài, không khí thời cuộc năm xưa (thời Phi Khanh - Nguyễn Trãi) và cũng là không khí của xã hội Việt Nam những năm 20 thế kỉ XX. Bốn câu tiếp đầm đìa máu lệ:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tài lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giờ phút này đây, cha sẽ ra đi mà chẳng bao giờ về nữa. Đất nước lầm than, cha con li biệt, tình đất nước lớn lao hòa trong tình phụ tử sâu nặng Nguyễn Phi Khanh bị giải sang Tàu. Để làm tròn đạo hiếu với cha già, Nguyễn Trãi muốn đi theo để phụng dưỡng. Nhưng Phi Khanh gạt tình riêng, dằn lòng khuyên con trở lại để trả thù nhà, đền nợ nước. Người sắp ra đi vĩnh viễn thường nói những lời gan ruột, những lời mà người còn sống phải khắc cốt ghi xương.
Tấm lòng đối với đất nước của người cha thật cảm động. Ở những câu thơ tiếp theo trong phần 2 tác giả đã hóa thân vào người trong cuộc li tan để phác ra tình cảnh đau thương của đất nước lầm than nô lệ. Trong đó tác giả sử dụng cả tự sự và miêu tả xen lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập trong thảm họa "xương rừng máu sông"; uất hận sầu đau đang ngùn ngụt ngút trời:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đổ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Nỗi đau ở đây là một nỗi đau lớn, vượt lên nỗi đau riêng để thành nỗi đau cao cả, thiêng liêng của cả đất nước, giống nòi. Sự lớn lao ấy được diễn tả bằng hàng loạt các hình ảnh mang tầm vóc vĩ mô: vong quốc, cơ đồ, đất khóc, giời than, nòi giống. Dòng xúc cảm mãnh liệt thống thiết biểu hiện qua những từ ngữ diễn tả tình cảm ở cung bậc mạnh, bi thiết: kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc than, thương tâm.
Mỗi dòng thơ là một tiếng kêu than đứt ruột, đầy những hờn căm, bi phẫn. Chẳng đủ nước mắt để khóc than cho những đớn đau đang tràn ngập giang sơn, đắng cay đành nuốt sâu trong dạ, người cha nhắn nhủ tâm huyết lại cho con:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...
Nói phận mình bất lực để ủy thác tất cả cho con, cha "tuổi già sức yếu", lại gặp cơn nguy nan, đành uất hận, tủi hờn mà bó tay. Khơi gợi lại truyền thống kiên cường bất khuất của tổ tiên, người cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình ngọn lửa căm thù xâm lăng, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà và là cả niềm hi vọng lớn vào con trước khi đi mãi. Lời trao gửi nặng tựa Thái sơn. Nước mất thì nhà cũng tan, thù nhà chỉ có thể trả được khi thù nước đã rửa sạch. Nguyễn Phi Khanh muốn con mình biến nỗi đau mất cha thành nỗi hận mất nước.
Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền thống văn học. Trần Tuấn Khải đã rất thành công khi lựa chọn chuyện chia li giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để gửi gắm tâm sự, nỗi đau mất nước nhằm khơi gợi tinh thần yêu nước thương nòi khi non sông đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân.
Bằng tình cảm sâu đậm, mãnh liệt, với một giọng điệu thống thiết, thán ca, tác giả của Hai chữ nước nhà đã thực hiện bổn phận, sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ yêu nước. Thơ ông thôi thúc lòng người, khích lệ mọi người tranh đấu cho giang sơn độc lập, tự do.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải số 2
Tác giả : Á Nam Trần Tuấn Khải (1895 - 1983), bút hiệu Á Nam quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Á Nam Á Nam Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào.
Bài thơ nổi bật và để lại nhiều ấn tượng nhất của tác giả có lẽ là " Hai chữ nước nhà". Bởi lẽ sáng tác đó đã nói hộ tấm lòng và trái tim yêu nước của người dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu cho tập Bút quan hoài I (xuất bản năm 1924). Bài thơ lấy đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta. Nhà thơ đã mượn lời của người cha là Nguyễn Phi Khanh dặn dò con là Nguyễn Trãi để gửi gắm nỗi lòng của mình. Đoạn trích gồm 36 câu thơ thể song thất lục bát.
Đây là đoạn trích trong tập "Bút Quan hoài" sáng tác vào năm 1926. Để phân tích cụ thể tác phẩm chúng ta có thể chia bài thơ thành ba phần. Phần đầu: Có 8 câu là cảnh chia li ở nơi biên giới, giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh - Nguyễn Trãi diễn ra rất ảm đạm, thê lương.
Phần thứ hai: gồm 20 câu tiếp theo là lời người cha kể về dòng giống Lạc Hồng, về lịch sử trường tồn mấy ngàn năm của dân tộc và những mất mát đau thương đất nước đang phải gánh chịu. Phần thứ ba:gồm 8 câu, tác giả đã để cho người cha dặn dò người con, là nói lên niềm tin tha thiết về đất nước.
Mở đầu bài thơ gợi nên khung cảnh nơi chia ly không thể trở về của người cha, tạo không khí bao trùm cả bài thơ:
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dậm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
Mở đầu, tác giả đã gợi lên cảnh đất nước đau thương dưới ách thống trị của giặc ngoại xâm. Những hình ảnh nhân hóa rất điêu luyện: "mây sâu ảm đạm", "gió thảm đìu hiu" "hổ thét chim kêu"... Cảnh vật núi sông như mang nỗi đau con người. Cả một không gian rộng lớn từ "chôn ải Bắc" đến "chốn ải Nam'' và "khắp bốn bể" đều chung một niềm đau với con người nơi đây. Từng câu thơ như thấm đầy nước mắt, giọng thơ thiết tha não nùng: "Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước/ Chút thân tàn lần bước dậm khơi / Trông con tầm tã châu rơi".
Hình ảnh người cha già với chút thân tàn đang lê bước tới chốn lưu đày khiến người con rất đỗi đau lòng. Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi thật éo le, con muốn đi theo để phụng dưỡng cha, nhưng cha dằn lòng khuyên con trở lại để mưu tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.
Phần thứ hai là lời dặn từ tâm can của Nguyễn Phi Khanh giành cho Nguyễn Trãi . Nhớ "hai chữ nước nhà" là nhớ về dòng giống Hồng Lạc, là nhớ về lịch sử trường tồn "mấy ngàn năm" của dân tộc, là nhớ giang sơn "giời Nam riêng một cõi này", là nhớ đến bao "anh hùng hiệp nữ" .., là để nâng cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Phải thật khâm phục tác giả đã hóa thân mượn lời bày tỏ nỗi lòng thật tài tình. Nhưng sau đó là những câu thơ bày tỏ bức tranh thê thảm của non sông đất nước, giọng thơ trở nên căm phẫn hơn hết:
Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm hoạ xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn dân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Thảm vong quốc kể sao cho xiết
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi khóc đất giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng lĩnh như xây khối uất
Sóng Long giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! càng nói càng đau...
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Tác giả sử dụng tự sự và miêu tả xen lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập trong thảm họa "xương rừng máu sông", lòng dân căm phẫn. Những từ ngữ hình ảnh "khói lửa bừng bừng", "xương rừng máu sông", "thành tung quách vỡ", "đất khóc giời than", "xây khối nát", "vật cơn sầu"... tuy mang tính ước lệ, nhưng trong văn cảnh vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ vì đã gợi lên bao nỗi nhục mất nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược.
Ngoài ra tác giả đã sử dụng những động từ, tính từ có sức gợi cảm cao như: "kể sao xiết kể", "xé tâm can", "thương tâm", lầm than" và những hình ảnh gây xúc động "Ngậm ngùi đất khóc giời than" đã phản ánh mức độ bi thảm của thực trạng mất nước lúc bấy giờ. Tám câu cuối cùng là lời kêu gọi, dặn dò của người cha trước lúc từ biệt:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...
Thay lời cho người cha, Á Nam Trần Tuấn Khải đã viết nên những lời gan ruột, tâm huyết trao lại cho Nguyễn Trãi. Người cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình ngọn lửa căm thù xâm lăng, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà. Gánh nặng sơn hà, xã tắc xin uỷ thác cho thế hệ sau này với tất cả niềm tin tưởng và hi vọng .
Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền thống văn học. Á Nam Trần Tuấn Khải đã thành công khi tạo cảm xúc sâu sắc trước tâm sự yêu nước mãnh liệt của người cha, cũng là tâm sự yêu nước mãnh liệt của nhà thơ để tác phẩm của ông mãi đi vào lòng người đọc sau này.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải số 3
Trần Tuấn Khải (1895 - 1983), bút hiệu Á Nam quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Là một nhà Nho tiến bộ, ông thường mượn đề tài lịch sử hoặc những biểu tượng nghệ thuật bóng gió để kín đáo bộc lộ nỗi đau mất nước, thái độ căm giận bọn cướp nước cùng bè lũ tay sai và bày tỏ khát vọng độc lập, tự do của mình, đồng thời động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào.
Thơ Trần Tuấn Khải được truyền tụng rộng rãi trong giai đoạn đầu thế kỉ XX, nổi tiếng nhất là những bài hát theo làn điệu dân ca như Gánh nước đêm, Anh đi anh nhớ, Hai chữ nước nhà được viết dưới hình thức thơ lục bát và song thất lục bát.
Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu tập Bút quan hoài I, quyển thứ nhất, sáng tác vào năm 1924. Mượn đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh, một viên quan tài giỏi của triều đình phong kiến đương thời bị giặc bắt đem sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi định đi theo để chăm sóc cha nhưng tới biên giới phía Bắc, Nguyễn Phi Khanh đã khuyên con nên quay về để mưu tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.
Đoạn trích trong sách giáo khoa gồm 36 câu là phần mỗ đầu của bài thơ dài 101 câu, nội dung kể lại cuộc chia tay đầy ý nghĩa của cha con Nguyễn Trãi đã được ghi vào lịch sử chống ngoại xâm đau thương và oanh liệt của dân tộc. Trong cảnh ngộ đau thương, Nguyễn Phi Khanh gạt lệ khuyên con trai bao điều hữu ích.
Đất nước thịnh suy là lẽ thường tình. Làm trai phải biết nuốt hận, chờ thời cơ để trả nợ nước, báo thù nhà. Người cha già lực bất tòng tâm, đành gửi trọn niềm tin vào con trai, mong con nối chí lớn của mình, tiếp tục sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng đất nước. Đoạn trích có thể chia làm ba phần:
Phần 1 : Từ đầu... đến lời cha khuyên: Tâm trạng đau đớn của người cha trong cảnh ngộ éo le;
Phần 2: Tiếp theo... đến sau đó mà: Hiện tình đất nước trong cảnh đau thương, tang tóc.
Phần còn lại : Sự bất lực của người cha và lời trao gửi tâm huyết dành cho con.
Tại sao tác giả lại lấy Hai chữ nước nhà làm tựa đề của bài thơ? Tựa đề đó gắn với tư tưởng chung của bài thơ như thế nào? Nước và nhà vốn là hai khái niệm, nhưng trong hoàn cảnh riêng của hai cha con Nguyễn Trãi thời xưa (thế kỉ XV) và hoàn cảnh chung của đất nước ta vào những năm đầu thế kỉ XX thì hai khái niệm đó lại có mối liên quan không thể tách rời. Nước mất thì nhà tan. Thù nhà chỉ có thể trả được khi thù nước đã rửa. Bởi thế Nguyễn Phi Khanh muốn nhắc nhở con là hãy lấy nước làm nhà, lấy cái nghĩa với nước thay cho chữ hiếu với cha, như thế là vẹn cả đôi đường.
Sức truyền cảm mạnh mẽ của bài thơ toát lên từ nội dung yêu nước. Tác giả đã tái hiện khá đầy đủ khung cảnh buổi chia li và tâm trạng đau thương, khắc khoải cua hai cha con Nguyễn trãi. Điều đó giống như "gảy đúng vào dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người". (Xuân Diệu).
Có thể coi những lời khuyên của Nguyễn Phi Khanh trong bối cảnh nước mất, nhà tan là lời trăn trối của cha với con trong giờ vĩnh biệt. Các câu cảm thán đã tạo nên âm hưởng lâm li, thống thiết. Thể thơ song thất lục bát rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng nặng trĩu buồn thương của nhân vật.
Nội dung bài thơ không chỉ đơn thuần mang tính chất hoài cổ mà nó chất chứa tâm sự phẫn uất, đau thương của tác giả trước tình cảnh nước mất, nhà tan trong hiện tại. Vì vậy, nó làm rung động lòng người và được truyền tụng rộng rãi, đặc biệt là trong tầng lớp trí thức, thanh niên và học sinh yêu nước. Đốn câu thơ đầu là khung cảnh cuộc chia li:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Cuộc chia tay giữa hai cha con diễn ra ở biên ải phía Bắc vốn là nơi ảm đạm, heo hút, bốn bề rừng núi trập trùng, mây sâu, gió thảm, hổ thốt, chim kêu... Đối với cuộc ra đi không có ngày trở lại của Nguyễn Phi Khanh thì đây tựa điểm dừng chân cuối cùng để rồi vĩnh viễn xa lìa Tổ quốc, quê hương và những người ruột thịt. Tâm trạng đau đớn của kẻ bị lưu đày biệt xứ đã phủ lên cảnh vật một màu tang tóc, thê lương và ngược lại, cảnh vật ấy càng như giục Cơn sầu trong lòng người vốn nặng tình non nước.
Tình cảm yêu nước của tác giả đã biến những hình ảnh ước lệ và từ ngữ sáo mòn trong thơ cổ điển thành chân thực và cảm động. Dường như tác giả được trực tiếp chứng kiến cuộc chia tay đau đớn ấy và hóa thân vào cả kẻ ở lẫn người đi để thấu hiểu, đồng cảm với tâm trạng nhân vật, từ đó viết nên những dòng thơ máu hòa nước mắt:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay.
Giời Nam riêng một cõi này,
Anh hùng hiệp hữ xưa nay kém gì!
Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi thật éo le: cha bị giặc bắt giải sang Tàu, không mong ngày trở lại; con muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho trọn đạo hiếu, nhưng cha dằn lòng khuyên con trở lại để mưu tính việc đền nợ nước, trả thù nhà. Đối với cả hai cha con, nghĩa nước, tình nhà đều thiêng liêng sâu đậm.
Trước cảnh nước mất, nhà tan, cha con li biệt, nỗi đau đớn xót xa trong lòng họ càng tăng lên gấp bội.Nguyễn Phi Khanh khuyên con những điều tâm huyết. Trước hết, ông nhắc nhở con về dòng giống cao quý của dân tộc Việt : Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định.
Sau đó phân tích cho con hiểu về quy luật của lịch sử là các triều đại phong kiến ắt phải trải qua các giai đoạn hưng thịnh và suy vong nhưng gương anh hùng, hiệp nữ cứu nước thì xưa nay không hiếm và không kém gì những gương sáng trong lịch sử phong kiến phương Bắc. Để bảo vệ đất nước, người phụ nữ còn làm nghĩa hiệp, huống chi các bậc nam nhi?!
Nguyễn Phi Khanh lấy bốn chữ Giang sơn làm trọng để giải thích cho Nguyễn Trãi - người con mà ông yêu quý và tin tưởng nhất. Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, lời khuyên của người cha có ý nghĩa như một lời trăng trối. Nó thiêng liêng, xúc động vô cùng, khiến người con phải khắc cốt ghi xương.
Tác giả hóa thân vào Nguyễn Phi Khanh, người bị biệt xứ lưu đày, tâm tư trĩu nặng nỗi lo đời để miêu tả tình hình bi thảm của đất nước và lên án tội ác trời không dung đất không tha của quân xâm lược:
Thân vận nước gặp khi biến đổi,
Để quân Minh thừa hội xâm lăng,
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Những câu thơ này xoáy mạnh vào nỗi nhục mất nước trong tâm can người đọc đương thời. Giặc Pháp bây giờ nào có khác chi giặc Minh thuở ấy, cũng đang gây ra bao cảnh đau thương tang tóc trên đất nước ta. Xen giữa những dòng tâm tư đắng cay, chua xót là những lời cảm thán ngậm ngùi, bi thương:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Những động từ, tính từ có sức gợi cảm cao như: kể sao xiết kể, xé tâm can, thương tâm, lầm than đã phản ánh mức độ bi thảm của thực trạng mất nước lúc bấy giờ. Gây xúc động nhất là hình ảnh: Ngậm ngùi đất khóc giời than, quả là "tình cảnh cảm sầu, kể sao cho xiết" đúng như nhận định của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.
Tâm sự đau đớn của Nguyễn Phi Khanh được thể hiện trong bài thơ là nỗi đau lớn lao, vượt lên số phận cá nhân, trở thành nỗi đau non nước. Mỗi lời nhắn nhủ con là một tiếng than, tiếng nấc nghẹn ngào, cay đắng. Giọng thơ bi phẫn vốn là sở trường của Trần Tuấn Khải rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng khắc khoải, buồn thương của nhân vật Nguyễn Phi Khanh. Do đó bài thơ có sức lay động lòng người, nhất là đối với những tâm hồn đồng điệu đương thời.
Trong những giây phút cuối cùng được sống bên con, Nguyễn Phi Khanh đã đặt ra cho Nguyễn Trãi một câu hỏi lớn, cũng là nỗi niềm băn khoăn không lúc nào nguôi trong lòng ông:
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà ?
Tác già mượn hình ảnh khói núi Nùng, sóng sông Nhị (sông Hồng còn gọi là Nhị Hà) biểu tượng của kinh đô nước Đại Việt để thể hiện mức độ căm giận quân xâm lược của mình, cơ nghiệp lớn lao vững chắc của ông cha, tổ tiên gây dựng tự bao đời, nay con cháu há lại để rơi vào tay giặc dữ? Nói đến tình cảnh "lực bất tòng tâm" của Nguyễn Phi Khanh, ngòi bút tác giả như đẫm nước mắt:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...
Tất cả những lời nói trên của Nguyễn Phi Khanh đều là lời gan ruột, tâm huyết trao lại cho con. Gánh nặng sơn hà, xã tắc đã uỷ thác cho thế hệ sau với tất cả niềm tin tưởng và hi vọng. Lời khuyên của cha kích thích, hun đúc chí nam nhi của con, động viên con hãy tỏ ra xứng đáng với sự nghiệp oanh liệt của tổ tông đã bao phen vì nước.
Hai chữ nước nhà là bài thơ nổi tiếng của Á Nam Trần Tuấn Khải. Tác giả tái hiện cuộc chia tay giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan để thông qua đó bộc lộ cảm xúc của mình, đồng thời khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào ta. Tình cảm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà của tác giả đã tạo nên sức sống lâu dài cho bài thơ.
Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét rất đúng: "Hai chữ nước nhà được xem là bài thơ hay nhất đã tổng hợp các mô típ văn thơ yêu nước của Á Nam, từ giọng bi tráng đến giọng mỉa mai, từ chất căm hờn đến lời mắng mỏ, từ sự dỗi tức nguyền rủa bọn Việt gian chết tiệt đến nỗi đau thương ôm lấy bà mẹ giang san".
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải số 4
Những năm 20 của thế kỉ trước, những bài thơ hát theo làn điệu dân ca, những bài thơ lục bát, song thất lục bát, thất ngôn... được truyền bá sâu rộng trong dân gian. Những gương anh hùng được Trần Tuấn Khải nói đến có giá trị khích lệ tinh thần yêu nước, nói lên nỗi đau nhục nô lệ lầm than, bày tỏ khát vọng độc lập tự do không bao giờ nguôi.
Đoạn trích bài thơ "hai chữ nước nhà" gồm có 36 câu thơ song thất lục bát được Trần Tuấn Khải sáng tác vào năm 1926, in trong tập "Bút quan hoài". Trong lời đề từ, nhà thơ nói rõ cảm hứng của mình là "nghĩtới lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu". Qua đó,ta cảm nhận được "Hai chữ nước nhà" là bài thơ mượn đề tài lịch sử để thể hiện cảm hứng yêu nước, kích thích lòng yêu nước cho quốc dân đồng bào khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp.
Lời đề từ đưa chúng ta trở về những năm tháng đau thương của đất nước và dân tộc. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, dìm đất nước ta vào trong máu lửa, chúng ta bắt cha con ông Hồ Quý Li và một số đại thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh giải về Tàu. Có thể nói bài thơ là lời cha dặn con về "Hai chữ nước nhà", về mối thù nhà nợ nước.
Trong phần đầu tiên của đoạn trích, tác giả đã gợi lên cảnh đất nước đau thương dưới ách thống trị của giặc Minh tàn bạo. Những hình ảnh nhân hóa rất gợi: "mây sâu ảm đạm", "gió thảm đìu hiu" "hổ thét chim kêu"... Cảnh vật núi sông như mang nỗi đau con người. Cả một không gian rộng lớn từ "chôn ải Bắc" đến "chốn ải Nam’' và "khắp bốn bể" đều thấm máu và nước mắt của hàng triệu con người:
"Chốn ải Bắc, mây sầu ảm đạm,
Cõi trời Nam, gió thảm đìu hiu
Bốn bể hổ thét chim kêu..."Trước thảm cảnh "vong quốc", người cha già trên con đường đi đày càng ngổn ngang nỗi niềm. Các chữ, các hình ảnh như: "bất bình", "hạt máu nóng thấm quanh hồn nước", "tầm tã châu rơi" đã nói lên một cách cảm động "di hận" của người anh hùng thất thế, một bi kịch lịch sử của cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi. Câu thơ như thấm đầy lệ, giọng thơ thiết tha não nùng:
"Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi! Con nhớ lấy lời cha khuyên"Nguyễn Trãi có câu thơ chữ Hán "Anh hùng di hận kỉ thiên niên", nghĩa là người anh hùng để lại mối hận đến nghìn năm. Phần đầu bài "hai chữ nước nhà", Trần Tuấn Khải đã nói lên thật xúc động nỗi đau nước mất nhà tan, nỗi "di hận" của người anh hùng thất thế Nguyễn Phi Khanh.
Phần thứ hai là những lời thống thiết cha dặn con. Nhớ "hai chữ nước nhà" là nhớ về dòng giống Hồng Lạc, là nhớ về lịch sử trường tồn "mấy ngàn năm" của dân tộc, là nhớ giang sơn "giời Nam riêng một cõi này", là nhớ đến bao "anh hùng hiệp nữ" như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn... Nhớ "Hai chữ nước nhà" là để nâng cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc:
"Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!"Giọng thơ trở nên bừng bừng căm giận khi cha dặn con hãy khắc cốt ghi tâm những tội ác tày trời của quân "cuồng Minh":
"Bốn phương khói lửa bừng bừng .
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn
.....
Khói Hùng Lĩnh như xây khói uất
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầuNhững từ ngữ hình ảnh "khói lửa bừng bừng", "xương rừng máu sông", "thành tung quách vỡ", "đất khóc giời than", "xây khối nát", "vật cơn sầu"... tuy mang tính ước lệ, nhưng trong văn cảnh vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ vì đã gợi lên bao nỗi nhục mất nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược. Đặc biệt đoạn thơ của Trần Tuấn Khải đã đem đến liên tưởng cho người đọc về "Bình Ngô đại cáo"đoạn nói về tội ác giặc Minh tàn bạo:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kể,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi..."Người cha bị cùm trói, bị giải sang Tàu, nhìn cơ đồ giang san mà đau đớn như xé tâm can. Càng đau đớn, ông càng lo lắng cho vận mệnh của đất nước, tương lai của giống nòi. Câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ cất lên vô cùng thống thiết:
"Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai tế độ đần sau đó mà?"Vần thơ như chứa đầy lệ, có lời than, có tiếng nức nở. Lời cha dặn con cũng là lời non nước. Tám câu cuối trong phần cuối bài thơ vừa nói lên bi kịch của người cha: "tuổi già sức yếu", "sa cơ đành chịu bó tay"... vừa trông cậy vào con để trả thù, rửa hận nước: "Giang san gánh vác sau này cậy con"... Cha thiết tha dặn con lần cuối: "Vì nước" hãy "nhớ tổ tông", hãy đem máu đào mà hi sinh chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Đó là "hai chữ nước nhà" đó là những lời huyết lệ:
"Con nên nhớ tổ tông khi trước
Đã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...""Hai chữ nước nhà" là một bài thơ hay và cảm động. Nói lên một cách hàm súc cô đọng nỗi đau, nỗi nhục mất nước của dân tộc ta trong thế kỉ XV và căm thù đối với giặc Minh cướp nước. Sâu xa hơn, bài thơ đã khích lệ lòng yêu nước của đồng bào, khêu gợi khát vọng độc lập tự do của dân tộc khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp. "Hai chữ nước nhà" vừa là lời cha dặn con, vừa là lời Tổ quốc kêu gọi.
Từ ngôn ngữ, hình ảnh đến giọng thơ, vần thơ, từ những cặp câu thất ngôn đối nhau đến những hình ảnh nhân hóa, tượng trưng ước lệ đều cho thấy một bút pháp nghệ thuật rất già dặn, giàu bản sắc của Á Nam. Trong thời Pháp thuộc, bài thơ "Hai chữ nước nhà" đã làm lay động hàng triệu con người. Ngày nay, nó vẫn làm ta xúc động.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải số 5
Trong rất nhiều những sáng tác văn chương được lưu hành công khai trên văn đàn hợp pháp ba mươi năm đầu thế kỉ XX, bài thơ: Hai chữ nước nhà nhận được sự đón chào nồng nhiệt của công chúng độc giả. Bởi lẽ sáng tác đó đã nói hộ tấm lòng và trái tim yêu nước của người dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Là người có trái tim yêu nước sôi nổi, thiết tha, Trần Tuấn Khải xót xa tận đáy lòng trước hiện tình đau thương của đất nước. Để giãi bày tâm sự của mình, ông hoá thân vào các nhân vật lịch sử. Tâm trạng phẫn uất, đau thương của các nhân vật lịch sử trước cảnh nước mất nhà tan cũng chính là tâm trạng của ông. Tình cảm ấy đã trở thành nguồn cảm hứng chân thành và xúc động cho mạch thơ yêu nước của Trần Tuấn Khải tuôn chảy vào lòng người.
Bài thơ Hai chữ nước nhà nằm trong tập Bút quan hoài, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1924. Lấy đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược, Trần Tuấn Khải đã chọn một khoảnh khắc lịch sử đặc biệt để câu chuyện thêm phần xúc động. Đó là giờ phút chia li vĩnh biệt của hai nạn nhân vong quốc: cha con ông Nguyễn Phi Khanh. Cảnh tình ấy khiến lời dặn dò của người cha hoá thành lời trăng trối thấm đầy máu và nước mắt.
Tâm trạng phẫn uất đau thương cùng với lời trăng trối thấm máu và lệ được nhà thơ diễn tả bằng một lời thơ lâm li, thống thiết của thể song thất lục bát nên có sức rung động và truyền cảm mạnh mẽ.Cuộc chia li của hai cha con diễn ra ở chốn ải Bắc, nơi tận cùng của đất nước.
Người cha li biệt gia đình, quê hương xứ sở để lê tấm thân tàn tới chốn lưu đày biệt xứ. Người con quay trở lại quê hương đất nước mình nhưng tình cảnh cũng chua xót không kém cha: cũng chỉ là một nạn nhân vong quốc! Trong tâm trạng u uất của hai cha con, cảnh vật nhuốm một màu thê lương, tang tóc:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thổi đìu hiu,
Bốn bề hổ thét chim kêu
Và cảnh vật thê lương tang tóc càng làm tăng thêm nỗi sầu muộn, buồn đau trong lòng người:Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.Bốn câu song thất lục bát với những từ ngữ, hình ảnh cũ mòn, ước lệ mà lại có sức gợi cảm, tạo được không khí đau thương của cả thời xưa và nay!
Trong không khí tang tóc đau thương của đất nước, tình cảnh của hai cha con càng éo le, chua xót: người con những muốn đi theo cha để làm tròn đạo hiếu, người cha phải dằn lòng khuyên con quay trở lại để lo tính việc trả thù nhà, đền nự nước. Tình cha con tuy thật da diết, nhưng nghĩa nước còn sâu đậm hơn nhiều! Tình nhà nghĩa nước giằng xé, khiến cả hai cha con đều tột cùng đau đớn, xót xa:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên
Trong bối cảnh không gian và tâm trạng như thế, lời trăng trối của người cha thật thiêng liêng, xúc động và có sức truyền cảm mạnh mẽ, khiến người con phải khắc cốt ghi xương. Để lời trăng trối của mình tăng thêm sức mạnh, người cha chỉ ra cho người con tội ác tày trời của quân giặc và hiện tình bi thảm của đất nước:
Than vận nước gặp khi biến đổi,
Để quân Minh thừa hội xâm lăng,
Bốn phương khối lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Lời thơ tràn đầy sự phẫn uất và xót đau da diết, làm xúc động tận tâm can người đọc. Người đọc những năm 20 của thế kỉ XX cũng là những nạn nhân vong quốc, dễ dàng cảm nhận nỗi đau của cha con ông Nguyễn Phi Khanh như chính nỗi đau của mình. Sau khi miêu tả hiện tình đất nước và tội ác của quân giặc, người cha trực tiếp bày tỏ nỗi lòng của mình:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi nàyỊ
Khối Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường uất cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai té độ đàn sau đó mà?
Tám câu song thất lục bát cũng là tám câu cảm thán với những từ ngữ, hình ảnh đầy cảm xúc: kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc, than, thương tâm… đã có tác dụng diễn tả sâu sắc, mạnh mẽ nỗi đau đớn, xót xa trong tâm trạng người cha.Dường như người cha đã quên đi nỗi đau và số phận của bản thân mình, ông chỉ nghĩ đến nỗi đau thương và số phận của cả đất nước, dân tộc.
Một tấm lòng như thế, thật xiết bao cảm phục! Từ trong đau thương, nhân vật trữ tình vụt lớn lên. Và lòng nhiệt tình yêu nước của ông còn làm rung động cả ngàn đời sau.Nhiệt tình ấy được kí thác vào lời trao gửi cho con, cho cả thế hệ sau: Con ơi! Con nhớ lấy lời cha khuyên.
Câu chuyện của người cha xưa hay chính nỗi lòng của nhà thơ luôn trăn trở về đất nước? Sự trăn trở ấy đã làm nên một giọng thơ tâm huyết đầy bi phẫn có tác dụng rung vào dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người, (Xuân Diệu).
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải số 6
Lấy cảm hứng từ việc ông nghĩ tớ lời ông Nguyễn Phi Khanh dặn ông Nguyên Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu, Á Nam Trần Tuấn Khải đã sáng tác bài thơ “Hai chữ nước nhà”. Bài thơ đã mượn câu chuyện lịch sử có sức gợi cảm để bộc lộ cảm xúc, khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào.
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Thiên nhiên được miêu tả thật u sầu, ảm đạm ở một nơi là chốn ải Bắc, một nơi là cõi trời Nam. Đó là một khung cảnh thiên nhiên hết sức hoang vu, vắng vẻ thậm chí ẩn tàng cả hiểm nguy và là phông nền cho cuộc chia li của hai cha con Nguyễn Phi Khanh:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dặm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
“Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước” có lẽ là ẩn dụ cho tình yêu nước hay là tình cha con trong cảm xúc về tình yêu nước trong lời người cha khuyên con:
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
Trời Nam riêng một cõi này
Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!
Với giọng hào sảng xen lẫn xót xa, trong lời mà ông khuyên con trai là nỗi căm thù với quân giặc đã biến tổ quốc, quê hương thành biển lửa:
Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn dân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Hình ảnh hiện lên rõ ràng về tội ác chất chồng của quân giặc, quân Minh tới gây cho nhân dân biết bao thương đau, làm cho một chốn giang san tan tác tiêu điều khiến cho những bậc trung thần nghĩa sĩ phải đau lòng mà thốt lên:
Thảm vong quốc kể sao cho xiết
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi khóc đất giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng lĩnh như xây khối uất
Sóng Long giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! càng nói càng đau...
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Trong nỗi thương giống nòi vô hạn, Nguyễn Phi Khanh để lại cho con một mối lo lắng đó là “Lấy ai tế độ đàn sau”, câu hỏi tu từ thiết tha nặng trĩu niềm đau đớn trích từ máu xương của người cha, ông lo cho thế hệ sau, còn đâu giống nòi, còn đâu xã tắc? Ông trải hết tấm lòng này với con đó là vì ông biết mình lần đi này một đi không trở lại, giờ phút chia tay cuối cùng ở chốn biên ải này, ông muốn gửi gắm sự nghiệp, lí tưởng cả đời cho con, muốn con hoàn thành chí lớn của mình:
Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Thân lươn bao quản vũng lầy
Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Ông nhắc cho con nhớ về tổ tiên, về truyền thống dân tộc, về những chiến công của những anh hùng trong lịch sử để khuyên con hãy vì dân, vì nước mà hiểu bản thân cần làm gì:
Con nên nhớ tổ tông khi trước
Ðã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây
Kìa Trưng nữ ra tay buồm lái
Phận liễu bồ xoay với cuồng phong
Giết giặc nước, trả thù chồng
Nghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi
Kìa Hưng Đạo gặp khi quốc biến
Vì giống nòi quyết chiến bao phen
Sông Bạch Đằng phá quân Nguyên
Gươm reo chính khí nước rền dư uy
Coi lịch sử gươm kia còn tỏ
Mở dư đồ đất nọ chưa tan
Giang san này vẫn giang san
Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?
Con nay cũng một người trong nước
Phải nhắc câu Gia, Quốc đôi đường
Làm trai hồ thỉ bốn phương
Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng
Thời thế có anh hùng là thế
Chữ vinh hoa xá kể làm chi!
Mấy trang hào kiệt xưa kia
Hy sinh thân thế cũng vì nước non
Con đương độ đầu xanh tuổi trẻ
Bước cạnh tranh há dễ nhường ai?
Phải nên thương lấy giống nòi
Đừng tham phú quí mà nguôi tấc lòng
Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục;
Thân tự do chiên chúc mà vinh
Con ơi nhớ đức sinh thành
Sao cho khỏi để ô danh với đời
Chớ lần lữa theo loài nô lệ
Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai
Đem thân đầy đoạ tôi đòi
Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?
Sống như thế, sống đê, sống mạt
Sống làm chi thêm chật non sông!
Thà rằng chết quách cho xong
Cái thân cẩu trệ ai mong có mình!
Huống con cũng học hành khôn biết
Làm giống người phải xét nông sâu
Tuồng chi gục mặt cúi đầu
Cam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành!
Nỗi tâm sự đinh ninh dường ấy
Cha khuyên con có bấy nhiêu lời
Con ơi! con phải là người
Thì con theo lấy những lời cha khuyên
Nguyễn Phi Khanh giống như muốn dặn con những lời gan ruột cuối cùng, ông dặn con yêu nước thương nòi, sống có nhân có đức, không tham vinh hoa phú quý, đặc biệt phải biết căm phẫn cái thân nô lệ mà làm sao cho không hổ thẹn với đời. Dặn con xong những lời ấy, cũng là lúc ông phải đi, xa quê hương tổ quốc mãi mãi:
Cha nay đã muôn nghìn bi thảm
Nói bao nhiêu tâm khảm càng đau!
Chân mây mặt cỏ rầu rầu
Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!
Chốn biên ải đã hoang vu, nỗi sầu muộn của hai cha con lại càng làm cho nó trở nên buồn thảm hơn bao giờ hết và chân bước đi, đầu vẫn muốn ngoảnh lại mói với con những lời sau cuối, muốn con khắc sâu những lời dặn dò ấy của mình để nuôi chí đánh đuổi xâm lăng, lấy lại tự do độc lập cho giang sơn:
Lời cha dặn khắc xương để dạ
Mấy gian lao con chớ sai nguyền
Tuốt gươm thề với vương thiên
Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu
Gan tráng sĩ vững sau như trước
Chí nam nhi lấy nước làm nhà
Tấm thân xẻ với san hà
Tượng đồng bia đá hoạ là cam công
Nữa mai mốt giết xong thù nghịch
Mũi long tuyền lau sạch màu tanh
Làm cho đất rộng trời kinh
Bấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày!
Nghĩa vụ đó con hay chăng tá?
Tính toán sao vẹn cả đôi đường
Cha dù đất lạ gởi xương
Trông về cố quốc khỏi thương hồn già
Con ơi! Hai chữ nước nhà!
Đó chính là “nghĩa vụ” của một con người ở đời, nghĩ vụ với “hai chữ nước nhà”. Câu thơ cuối như nghĩa lời vang vọng cuối cùng của một tấm lòng yêu nước thiết tha nồng đượm mà sao nghe xót xa, đau nhói, gây ấn tượng mãi cho trái tim bạn đọc. Đọc "Hai chữ nước nhà" có cảm nhận như trong lòng ta trào dâng một tình yêu nước đang ngủ yên trong sâu thẳm trái tim.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải số 7
Bài thơ Hai chữ nước nhà là những cảm xúc chân thành, mãnh liệt, vừa gợi tả tâm trạng khắc khoải, đau thương của nhân vật lịch sử, vừa bộc lộ cảm xúc, khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào.Mở đầu bài thơ, tác giả thuật dựng lại hoàn cảnh mà hai cha con chia li, đó là ở biên giới hoang vu của tổ quốc:
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Không thể biết đây là cảnh buồn hay chính là người đang buồn. Nguyễn Phi Khanh bị đưa sang Tàu, đây là chuyến đi mà ông hiểu rằng sẽ là một đi không trở lại, có lẽ đây là lần cuối cùng mà ông có thể đứng trên mảnh đất quê hương mình mà nói chuyện với con trai. Chính vì vậy mà:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dậm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
“Hạt máu nóng” ở đây phải chăng là giọt nước mắt đau đớn như giọt máu rỉ ra từ lòng của một người cha. Hình ảnh “thân tàn lần bước dặm khơi” cho người đọc ấn tượng về dáng đi tiêu điều, xơ xác đau thương của người cha già đang đứt từng khúc ruột vì quê hương. Người cha ấy trong cơn đau đớn, chỉ còn biết khuyên bảo con những lời sau cuối:
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
Trời Nam riêng một cõi này
Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!
Người cha ấy trong lòng còn ôm bao nhiêu là nỗi canh cánh không thể nào dứt ra được, trong lòng ông còn đang đớn đau muôn phần bởi:
Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn dân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Thảm vong quốc kể sao cho xiết
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi khóc đất giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Tất cả những điều mà Nguyễn Phi Khanh còn đau đáu lúc ra đi chỉ có về nòi giống, cơ đồ dân tộc, ông đau đớn xiết bao trước cảnh nhân dân lầm than, bị chà đạp, chịu khổ đau, xót xa biết nhường nào khi thấy cơ đồ cố quốc sụp đổ, điêu tàn. Và có lẽ không chỉ có nỗi đau nơi con người, lòng thù hận nhuốm lên cả thiên nhiên cảnh vật:
Khói Nùng lĩnh như xây khối uất
Sóng Long giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! càng nói càng đau...
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Câu hỏi tu từ gói gọn hết tất cả những trăn trở của ông về nước nhà, ông lo lắng cho vận mệnh quốc gia, dân tộc, lo lắng cho cả thế hệ sau và cả cho lịch sử nòi giống. Nhưng hoàn cảnh của ông lúc này chỉ có thể:
Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Thân lươn bao quản vũng lầy
Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Vì đem hết cơ ngơi mong muốn đặt lên vai con nên người cha ấy mong đợi ở con rất nhiều, ông muốn răn con những điều hay lẽ phải trong giây phút chia li này để hướng con đến lí tưởng mục đích tốt đẹp:
Con nên nhớ tổ tông khi trước
Ðã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây
Kìa Trưng nữ ra tay buồm lái
Phận liễu bồ xoay với cuồng phong
Giết giặc nước, trả thù chồng
Nghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi
Kìa Hưng Đạo gặp khi quốc biến
Vì giống nòi quyết chiến bao phen
Sông Bạch Đằng phá quân Nguyên
Gươm reo chính khí nước rền dư uy
Coi lịch sử gươm kia còn tỏ
Mở dư đồ đất nọ chưa tan
Giang san này vẫn giang san
Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?
Nguyễn Phi Khanh đưa ra lịch sử nước nhà nhắc con đến mối thù xâm lăng, đến những tướng lính đã ghi danh sử sách cốt để nhắc nhở trách nhiệm của con đối với giang sơn xã tắc:
Con nay cũng một người trong nước
Phải nhắc câu Gia, Quốc đôi đường
Làm trai hồ thỉ bốn phương
Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng
Thời thế có anh hùng là thế
Chữ vinh hoa xá kể làm chi!
Mấy trang hào kiệt xưa kia
Hy sinh thân thế cũng vì nước non
Con đương độ đầu xanh tuổi trẻ
Bước cạnh tranh há dễ nhường ai?
Phải nên thương lấy giống nòi
Đừng tham phú quí mà nguôi tấc lòng
Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục;
Thân tự do chiên chúc mà vinh
Con ơi nhớ đức sinh thành
Sao cho khỏi để ô danh với đời
Chớ lần lữa theo loài nô lệ
Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai
Đem thân đầy đọa tôi đòi
Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?
Sống như thế, sống đê, sống mạt
Sống làm chi thêm chật non sông!
Thà rằng chết quách cho xong
Cái thân cẩu trệ ai mong có mình!
Huống con cũng học hành khôn biết
Làm giống người phải xét nông sâu
Tuồng chi gục mặt cúi đầu
Cam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành!
Nỗi tâm sự đinh ninh dường ấy
Cha khuyên con có bấy nhiêu lời
Con ơi! con phải là người
Thì con theo lấy những lời cha khuyên
Cha nay đã muôn nghìn bi thảm
Nói bao nhiêu tâm khảm càng đau!
Chân mây mặt cỏ rầu rầu
Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!
Lời cha dặn khắc xương để dạ
Mấy gian lao con chớ sai nguyền
Tuốt gươm thề với vương thiên
Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu
Gan tráng sĩ vững sau như trước
Chí nam nhi lấy nước làm nhà
Tấm thân xẻ với san hà
Tượng đồng bia đá họa là cam công
Nữa mai mốt giết xong thù nghịch
Mũi long tuyền lau sạch màu tanh
Làm cho đất rộng trời kinh
Bấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày!
Những điều mà ông khuyên con vô cùng sâu sắc, chân quý, đó đều là những đạo lí để nên người: yêu nước, thương nòi, không tham vinh hoa, biết căm thù số kiếp nô lệ, nuôi chí lớn thống nhất non sông. Đó có lẽ là tất cả những điều ông mong ở người con trai của mình:
Nghĩa vụ đó con hay chăng tá?
Tính toán sao vẹn cả đôi đường
Cha dù đất lạ gởi xương
Trông về cố quốc khỏi thương hồn già
Con ơi! Hai chữ nước nhà!
Thời khắc chia li cuối cùng đã đến, sau tất cả, khi hình ảnh hai cha con đã mờ vào dặm xa, vẫn còn vẳng nghe “hai chữ nước nhà”. Bốn chữ đơn thuần mà gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Đọc "Hai chữ nước nhà" ta cảm động biết bao trước tình cảnh của hai cha con cùng lí tưởng, tình cảm cao đẹp của những con người lịch sử đáng khâm phục.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải số 8
Với những áng thơ của thế kỷ XX lấy hướng sáng tác chủ đạo về lịch sử đáng tự hào dân tộc, tình yêu nước và tìm kiếm những hơi hướng mới mẻ để phát triển đất nước. Các nhà thơ đem lòng nhiệt huyết của mình gửi gắm vào mỗi tác phẩm, Hai Chữ Nước Nhà là một trong những tác phẩm hay,tác giả Trần Tuấn Khải đã hóa thân đắm chìm với nhân vật, khai thác thể thơ hay cùng dòng tâm sự chân thực để nói lên cuộc sống của thế hệ chí sĩ yêu nước, truyền tiếp tâm huyết của mình đến những thế hệ trẻ của một dân tộc anh hùng.
Cả bài thơ chính là đoạn trích dài 36 câu được, là bài thơ nổi tiếng được viết trong tập Bút quan hoài I, sáng tác năm 1924, từng suy nghĩ rành mạch của tác giả dường như gửi gắm trọn vẹn, hoàn hảo hơn nhờ thể thơ song thất lục bát rất điêu luyện và mang được nhiều cảm xúc đến độc giả.
Nội dung của bài thơ vô cùng quen thuộc nhưng lại đầy ấn tượng khi đề tài yêu nước ấy lại được thể hiện qua những lời tâm sự rất chân thực, mong mỏi của người cha- nhà chí sĩ, nhà anh hùng, vị quan tài giỏi lại sắp phải ly biệt tổ quốc vì bọn giặc Minh đương thời quá tàn ác với nước ta với người con trai đầy hiếu thảo, có ý chí, giúp con hình dung được hoàn cảnh đất nước với quy luật thịnh suy của các triều đại.
Những tội ác mà bọn giặc gây ra đau khổ lên người dân nhẫn nhục, đắng cay, vô tội và cố gắng gạt tình riêng mà mơ tưởng về một tương lai đầy trách nhiệm với tổ quốc nối tiếp sự nghiệp của người cha với tổ quốc, đánh đuổi giặc, giải phóng đất nước, giúp đất nước đi lên.
Cả bài thơ có thể chia làm 3 phần rõ rệt. Phần 1(8 câu đầu) với nội dung: Tâm trạng của người cha trong khi sắp phải rời xa đất nước. Phần 2( 20 câu tiếp theo) là thể hiện rõ được cảnh ngộ của người cha trong cảnh nước mất nhà tan. Bên cạnh đó phần thứ 3 (còn lại) đưa đến lời dặn làm người và trao con lời tâm nguyện cứu nước. Nội dung của bài thơ có thể thấy đã ngay từ đầu ấn tượng với ta rõ nét qua Nhan đề của bài thơ “Hai chữ nước nhà”.
Nước có nghĩa chỉ chung dân tộc, nhà chỉ những nơi nhỏ rất thân thiết. Trong hoàn cảnh lịch sử hay thời kì hiện đại thì hai từ này vẫn được dùng chung vói nhau để tăng thêm ý nghĩa quan trọng và gần gũi với mỗi con người, nhưng ở thời kì lịch sử của nhân vật- thời kỳ lầm than, phong kiến thống trị, lũ giặc bán nước cướp nước ngang nhiên lộng hành, thì có lẽ hai từ này đi kèm dường như không tách rời được và sâu sắc đến mức được rất nhiều nhà yêu nước đã sớm nhận ra, làm ta hình dung được câu nói “ Nước mất nhà tan”.
Tình yêu gia đình phải được nâng lên thành tình yêu nước, thù nhà được giải quyết chỉ khi nợ nước được giải quyết. Bởi vậy Nhà yêu nước Nguyễn Phi Khanh đã giúp con hiểu được tình cảm cá nhân, tình hiếu thảo với cha mẹ, nên được quện trong tình yêu nước lớn lao mới có ý nghĩa.
Chẳng thể ngừng suy nghĩ, liên tưởng khung cảnh xúc động về cuộc chia ly không hẹn gặp lại giữa người cha, người con biến nơi vùng biên giới trở nên là một nơi ảm đạm, buồn đau nó là nơi ra đi của hàng vạn chiến sĩ yêu nước,chỉ kịp nói lời vĩnh biệt tổ quốc trong lặng lẽ, với nỗi đau nhà chí sĩ phải dồn nén đáy lòng gợi mở ra được sự gửi gắm những niềm tin quý báu cho con những phút giây gặp gỡ cuối cùng ngắn ngủi thể hiện rõ trong từng chữ vần thơ ngắn nhưng lại rất giàu hình ảnh, cảm xúc lắng đọng ở phần đầu
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Và ở ta thấy được qua lời thơ không chỉ là lời trò chuyện chân thành của giữa 2 người đàn ông trưởng thành rất thân thiết đơn thuần mà trong đó là cả những lời dường như là lời trăng trối thiêng liêng nặng ân tình mang nhiều ý nghĩa lớn lao, cuộc chia li diễn ra trong buồn bã đầy căm tức quân giặc nhưng bất lực trong lời than như tiếng khóc ai oán khiến người con phải khắc cốt ghi tâm.
Trước hoàn cảnh Con trai duy nhất luôn mong muốn được đi theo để báo hiếu lại tình phụ tử, nhưng Người cha mẫu mực, đầy khí chất đã gạt đi tình riêng, mang theo nợ nước thù nhà thiêng liêng sâu đậm nhưng còn dang dở đặt lên vai người con như một khẩn nguyện cuối cùng.
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dậm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
Phần một đã giúp mở ra những nội dung cụ thể sâu sắc của phần 2 là tình cảm của người cha với đất nước, từ hoàn cảnh thực tế nước nhà vẫn lầm than nô lệ,tội ác tày trời của giặc đã tiếp nối những dòng nhấn mạnh ở đó là xuất thân của dân tộc, khí phách quật cường thời nào cũng có và quan trọng là lời dặn dò về lòng tự hào dân tộc đã khởi tác dụng.
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
Trời Nam riêng một cõi này
Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!
Một lời nhắc đầy tự hào về lịch sử quê hương “giống hồng lạc” đã trở thành chủ của đất nước riêng, được “Trời định đoạt sẵn”. Ông hào hứng phân tích cho con qua các thời kì triều đại có quy luật “ Thịnh suy” là giai đoạn tất yếu lúc lên hưng thịnh r cũng đến lúc phải đối diện với sự suy tàn, thay thế nhưng trong mỗi thời, đều có những anh hùng vĩ đại làm nên những chiến công hiển hách đáng tự hào cho dân tộc, nơi ấy những người đàn bà vốn chỉ được ví “chân yếu tay mềm” giờ cũng đã trở thành những “nữ hiệp cứu nước”.
Tiếp đó những lời than thở đầy hận thù nhưng có chút bế tắc khi nói đến tội ác của quân Minh xâm lược chúng dễ nhằm vào sơ hở và luôn có mưu đồ hòng cướp nước ta, gây bao đau khổ mất mát cho người dân vô tội.
Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông! …
Tác giả có lẽ sử dụng hết được ý nghĩa của thể thơ mình chọn để gửi gắm tâm sự, thành công lớn trong việc sử dụng lối nghệ thuật riêng của thể thơ những vần trắc (yên vận) xô xát giữa câu, réo rắt, da diết, rất hợp để diễn đạt nỗi uất ức, nỗi căm giận, lời mắng nhiếc, tiếng thở than, sự nghĩ ngợi, nỗi u sầu.
“Càng nói thì lại càng đau”, suy xét về thời thế triều đại sau, bật tiếng khóc nghẹn ngào cho hoàn cảnh của chính mình “lực bất tòng tâm”, người cha ấy vốn rất mẫu mực suy tính và đầy chí khí anh hùng luôn biết lấy giang sơn làm trọng gạt nước mắt cố khuyên con những điều tâm huyết nhất biết lấy giang sơn làm trọng vì vậy mà Nguyễn Trãi là người có học, sống tình cảm đã dặn lòng, ghi tạc trong lòng để rồi tiếp nối thế hệ, được ghi danh trong bảng vàng những người tài, có công lao to lớn cho dân tộc.
Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Thân lươn bao quản vũng lầy
Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Tác giả bài thơ như đắm hồn mình vào cảm xúc của nhân vật để cùng tự hào với người đời về những chiến tích lịch sử rạng ngời không thể quên được của đất nước ngàn đời.
Con nên nhớ tổ tông khi trước
Ðã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây ….
Những câu thơ đậm tình yêu nước từ thể thơ cổ điển ước lệ công thức nhưng đã biến thành những hình ảnh truyền tải thêm sắc nét, chân thực khắc họa sâu đậm vấn đề tầm vóc thời đại. Với những hình ảnh mạnh mẽ, tự cường cao của dân tộc, ngọn cờ nước Đại Cồ Việt ấy như luôn bay phấp phới trong trái tim đầy tự hào của mỗi người con khi nhắc về tổ quốc thiêng liêng.
Đây cũng là sự khuyến khích đến người con để hoàn thành trách nhiệm to lớn nhưng không hề trở thành gánh nặng áp lực vì nơi ấy có tình yêu đất nước, sẵn sàng noi gương như nhiều vị anh hùng để củng cố cho nền độc lập, sự phát triển của đất nước.
Bước sang khổ 3 đậm ý nghĩa qua những dòng thơ còn lại lời ông dặn con chính là luôn phải là chính mình- một con người có học thức, sống hiên ngang với “Chí làm trai” vẫn còn thật đúng đắn và là mẫu mực tiêu chuẩn lưu lại cho người đời sau. Và đặc biệt xoáy sâu vào sự kích thích lòng yêu nước nơi người con, phải nuôi một mối thù truyền kiếp của dân tộc,luôn trong thế chủ động tìm cơ hội để đánh đuổi giặc cướp nước, chớ dại dột để mất nước dễ dàng, mù quáng.
Hơn hết thảy vẫn là niềm tin vào thế hệ trẻ và tương lai của đất nước mãnh mẽ có thể làm nên những điều to lớn cho sự vững bền của dân tộc, làm dù có ít những vẫn suy xét hành động quyết liệt để cho thế hệ cha ông dù có nằm xuống vẫn cảm thấy không nuối tiếc.
Hai chữ nước nhà là một trong những bài thơ hay nhất của tác giả,sự mượn lời thông minh trước dòng suy nghĩ đúc kết thống thiết, đau đáu của nhà yêu nước Nguyễn Phi Khanh trong dòng xúc cảm khi đứng trước hoàn cảnh li biệt với Tổ Quốc, thực trạng mất nước hiện thời, để gieo vào đó lòng yêu nước bất diệt, tạo nên sức sống vĩnh cửu cho đất nước là trách nhiệm của các thế hệ trẻ.
Có thể nói đây là một Bài thơ tuyên truyền yêu nước, không khác gì những bài thơ về cách mạng trong phong trào thơ Mới hiện nay.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải số 9
Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu tập Bút quan hoài I của Trần Tuấn Khải, được sáng tác vào năm 1926. Bài thơ lấy đề tài lịch sử thời kì nước ta bị quân Minh xâm lược (thế kỉ XV). Cha con Nguyễn Trãi đã bị thất thế trong cuộc xâm lược này của quân giặc. Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt giải về Trung Quốc, Nguyễn Trãi định theo cha nhưng tới biên giới phía Bắc, Nguyễn Phi Khanh khuyên Nguyễn Trãi nên quay trở về để tính chuyện trả thù cho cha, cho dân tộc.
Tác giả bài thơ đã mượn lời người cha căn dặn con để viết nên tác phẩm mang tinh thần yêu nước sâu sắc và ý nguyện độc lập dân tộc. Đoạn trích “Hai chữ nước nhà” gồm 36 câu thơ được Trấn Tuấn Khải sáng tác vào năm 1926, in trong tập Bút quan hoài I. Những đề tài lịch sử, những gương anh hùng dân tộc đã được Trần Tuấn Khải ghi lại nhằm khích lệ tinh thần yêu nước, nói lên nỗi nhục của những người mất nước, qua đó thể hiện khác vọng độc lập, tự do của tác giả.
Trong lời đề từ của bài thơ, tác giả nói rõ cảm hứng của mình là Nghĩ lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu. Từ chi tiết này, ta có thể thấy Hai chữ nước nhà là bài thơ mượn đề tài lịch sử để thể hiện tinh thần yêu nước của tác giả.
Phần đầu của bài thơ, tác giả gợi lên cảnh đau thương của đất nước khi bị quân Minh xâm lược. Những hình ảnh nhân hóa rất gợi cảm như mây sầu ảm đạm, gió thảm đìu hiu, hổ thét chim kêu đã cho thấy sự đau thương của đất nước dưới ách đô hộ của nhà Minh. Sông núi cũng mang một nỗi đau như con người. Cả một không gian rộng lớn từ chốn ải Bắc đến cõi giời Nam và khắp bốn bể đều thấm máu và nước mắt của bao con người Việt Nam:Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu,…
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi
Trước cảnh đất nước bị đô hộ người cha trên đường đi đày vẫn còn ngỗn ngang nỗi niềm. Các chữ trong đoạn thơ đã thể hiện niềm uất hận của người anh hùng thất thế, một bi kịch mà người cha đang gặp. Câu thơ thấm đầy nỗi niềm, giọng thơ vừa thiết tha vừa nào nùng: Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên. Trước khi ra đi, người cha chỉ kịp nhắn gửi đến con những nỗi niềm của mình giao phó trách nhiệm trọng đại lại cho con:
Giống Hồng Lạc hoàng tiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
Giời Nam riêng một cõi này,
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!
Câu Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì! như muốn nhắc người con khắc ghi lòng tự tôn dân tộc, nối tiếp truyền thống của những người đi trước quên mình vì độc lập của dân tộc. Những câu thơ sau trở nên đầy hận khí khi người cha nói về những tội ác tày trời của quân giặc:
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Những hình ảnh như khói lửa bừng bừng, xương rừng máu sông, thành tung quách vỡ, đất khóc giời than… tuy mang tính ước lệ nhưng vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ vì đã gợi lên bao nỗi nhục mất nước, lòng căm thù đối với quân giặc. Người cha trước khi đi nhìn cảnh đất nước mà đau đớn lòng. Càng lo cho vận mệnh của đất nước thì nỗi đau ấy càng thêm chất chứa. Câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ cất lên vô cùng thống thiết:
Con ơi! càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Lời thơ như chứa đầy lệ, có lời than, có tiếng nức nở. Ở đây không còn là lời cha dặn con đơn thuần mà là lời của cả một dân tộc. Những câu cuối cùng trong bài thơ vừa nói lên bi kịch của người cha: tuổi già sức yếu, sa cơ đành chịu bó tay, vừa đặt niềm tin vào người con trong việc trả thù nhà, gánh nợ nước: Giang sơn gánh vác sau này cậy con. Những lời tha thiết dặn con lần cuối như vì nước, nhớ tổ tông mệnh lệnh cho người con trong hoàn cảnh đau buồn của đất nước.
Con nên nhớ tổ tông khi trước
Đã từng phen vì nước gian lao,
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…
Hai chữ nước nhà là bài thơ hay và cảm động. Bài thơ thể hiện một cách cô đọng nỗi đau mất nước, đồng thời khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, nêu cao khát vọng độc lập tự do của cả dân tộc. Hai chữ nước nhà không còn là lời giữa hai cha con với nhau mà là lời của Tổ quốc, của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải số 10
Trên văn đàn hợp pháp ba mươi năm đầu thế kỉ XX, Á Nam Trần Tuấn Khải là một tên tuổi để lại nhiều dấu ấn sâu đậm. Thơ Trần Tuấn Khải đã rung vào dấy đàn yếu nước thương nòi của mọi lòng người (Xuân Diệu).
Là một hồn thơ yêu nước lưu hành công khai, hợp pháp, nên nội dung yêu nước trong thơ ông thường được biểu hiện một cách riêng biệt để có thể lọt qua vòng kiểm duyệt khắt khe của chính quyền thực dân lúc bấy giờ. Mượn đề tài lịch sử để kí thác tâm sự yêu nước là một cách thức biểu hiện hữu hiệu và là một thành công lớn của Trần Tuấn Khải. Trong đó có thể xem: Hai chữ nước nhà là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ ấy.Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu cho tập Bút quan hoài I (xuất bản năm 1924). Bài thơ lấy đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta. Nhà thơ đã mượn lời của người cha là Nguyễn Phi Khanh dặn dò con là Nguyễn Trãi để gửi gắm nỗi lòng của mình. Bài thơ mở đầu bằng một cuộc chia li đầy máu và nước mắt:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu,
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước.
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.Nhà thơ đã chọn một bối cảnh không gian thật đặc biệt để làm nền cho cuộc chia li của hai cha con. Đó là chốn Ải Bắc heo hút, ảm đạm. Ải Bắc là một địa danh có sức gợi cảm lớn, và đối với cuộc ra đi không ngày trở lại của ông Nguyễn Phi Khanh thì đây là điểm cuối cùng để rồi chia biệt vĩnh viễn đối với Tổ quốc, với quê hương:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu,
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bìnhVà cảnh vật tang tóc, thê lương càng tô đậm thêm nỗi buồn đau trong lòng người hóa thành máu và lệ chia li:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi.
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Nước đã mất, nhà đã tan, hai cha con trở thành một kẻ vong quốc. Hơn nữa, tình cảnh của ông Nguyễn Phi Khanh là tình cảnh của một tù binh đang phải chịu cảnh lưu đày biệt xứ. Hình ảnh người cha già với chút thân tàn đang lê bước tới chốn lưu đày khiến người con rất đỗi đau lòng. Nguyễn Trãi những muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho tròn đạo hiếu.Nhưng thù nhà, nợ nước chất chồng, làm sao ông Nguyễn Phi Khanh có thể để con báo hiếu. Đối với người cha, nỗi đau mất nước đè nặng tâm hồn ông như: hạt máu nóng thấm quanh hồn nước, khiến ông không thể nghĩ đến tình riêng. Người cha ngậm ngùi gạt nước mắt chia li, dằn lòng khuyên con quay trở lại tìm cách diệt thù báo quốc. Cảnh nước mất nhà tan, cha con li biệt thật đau đớn, xót xa. Bao trùm lên nỗi đau thương ấy là tình nhà nghĩa nước thiết tha, sâu đậm khiến người đọc không thể không bồi hồi, xúc động.
Trong hoàn cảnh cha con chia lìa, lời khuyên của người cha trở thành lời trăn trối thiêng liêng và xúc động. Trong lời trăn trối đầy máu và nước mắt của người cha, hiện tình đất nước hiện ra đầy đau thương tang tóc:
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mònThảm cảnh ấy gắn liền với tội ác của giặc thù, của bọn lòng lang, dạ sói: Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu. Thảm cảnh của đất nước và tội ác của quân giặc khiến người cha tột cùng đau đớn và căm uất:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khốc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng Lĩnh như xây khôi uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?Vượt lên trên số phận của cá nhân là số phận của một dân tộc, một quốc gia. Vì thế nỗi đau của ông Nguyễn Phi Khanh đã trở thành nỗi đau lớn lao, cao cả: nỗi đau non nước; một nỗi đau thấu cả đất trời: Ngậm ngùi đất khóc giời than. Gắn bài thơ với hoàn cảnh ra đời của nó là bối cảnh đầu thế kỉ XX, thì những người dân Việt Nam lúc này cũng chỉ là những kẻ vong quốc đang chịu cảnh lầm than cơ cực. Nỗi đau mất nước của người xưa cũng là nỗi đau thương của cả dân tộc ta đầu thế kỉ XX. Lời thơ Trần Tuấn Khải đã tác động đến sâu thẳm trái tim yêu nước thương nòi của người dân đất Việt.
Trở lại với đoạn thơ và tâm sự của ông Nguyễn Phi Khanh, ta nhận thấy hình như trong tiếng nấc xót xa cho tình cảnh đau thương của đất nước, có cả sự ngậm ngùi chua xót của một người cảm thấy mình có lỗi với nước, với dân:
Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tayNên ông càng thêm tha thiết mong mỏi con trai có thể thay mình mà phục thù, báo quốc, rửa được mối hận cho cha già:
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Có lẽ, đây cũng là lời tâm huyết cuối cùng của người cha!Càng đọc kĩ đoạn thơ, ta càng xúc động sâu sắc trước tâm sự yêu nước mãnh liệt của người cha, cũng là tâm sự yêu nước mãnh liệt của nhà thơ. Và ta càng hiểu vì sao thơ Trần Tuấn Khải lại nhận được sự đón chào nồng nhiệt của công chúng độc giả, nhất là tầng lớp thanh niên lúc bấy giờ.
-
Trần Tuấn Khải là ai?
Trần Tuấn Khải (chữ Hán: 陳峻塏;[1] 4 tháng 11 năm 1895 – 7 tháng 3 năm 1983) là một nhà thơ Việt Nam, nổi danh từ thời tiền chiến. Các bút danh của ông là: Á Nam thường dùng, Đông Minh, Đông Á Thị, Tiểu Hoa Nhân, Lâm Tuyền Khách, Giang Hồ Khách, Lôi Hoàng Cư Sĩ.
Trần Tuấn Khải là một nhà yêu nước. Ông thường mượn những đề tài lịch sử, hoặc những biểu tượng nghệ thuật để bộc lộ nỗi đau mất nước, nỗi căm thù quân giặc thêm vào đó là khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào, tỏ lòng khát khao độc lập, tự do.
-
Đôi nét về bài thơ: "Hai chữ nước nhà"
Bài thơ "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải là một tác phẩm nổi bật trong kho tàng văn học hiện đại của Việt Nam. Đây là một bài thơ thể hiện lòng yêu nước sâu sắc và cảm xúc mạnh mẽ về tổ quốc, đồng thời cũng phản ánh tâm trạng và suy tư của tác giả về vận mệnh quốc gia.
Hoàn cảnh sáng tác: “Hai chữ nước nhà” là bài thơ đầu tiên trong tập Bút quan hoài của Trần Tuấn Khải
Bố cục:- Phần 1 (8 câu đầu): Tâm trạng người cha trong cảnh ngộ chia li
- Phần 2 (20 câu tiếp): Hiện thực đau đớn của đất nước và nỗi lòng của người ra đi
- Phần 3 (8 câu cuối): Lời tao gửi sự nghiệp cứu nước cho con
Giá trị nội dung: Qua đoạn trích Hai chữ nước nhà tác giả đã mượn một câu chuyện lịch sử có sức gợi cảm vô cùng lớn để bộc lộ được tình cảm mãnh liệt với đất nước khích lệ lòng yêu nước của đồng bào dân tộc
Giá trị nghệ thuật: Bài thơ sử dụng thành công thể thơ song thất lục bát. Giọng điệu da diết thông thiết và có sức gợi cảm mạnh mẽ. -
Dàn ý bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà"
1. Mở bài
- Vài nét về Trần Tuấn Khải: Một tác giả với sự nghiệp thơ ca chiếm phần nhiều, đó là nhà thơ thường mượn thơ ca để gửi gắm tình cảm thiêng liêng và rộng lớn - tình yêu quê hương, đất nước.
- Vài nét về tác phẩm “Hai chữ nước nhà”: Mượn câu chuyện về hai cha con Nguyễn Trãi, tác giả mong muốn hâm nóng tinh thần yêu nước thiết tha của mỗi con người.
2. Thân bài
a. Khái quát chung
- Đề tài và hoàn cảnh ra đời: bài thơ lấy cảm hứng từ một đề tài lịch sử (chuyện cha con Nguyễn Trãi khi xưa) để nói về lòng yêu nước.
- Vị trí đoạn trích: bài thơ dài 101 câu. Đoạn trích là 36 câu đầu bài thơ.
- Thể thơ: Song thất lục bát.
- Bố cục: 3 phần.
b. Nội dung
* Tâm trạng của người cha khi phải từ biệt con
- Từ ngữ hình ảnh ước lệ: mây sầu ảm đạm, gió thảm đìu hiu, hổ thét chim kêu ⇒ Gợi cuộc chia tay diễn ra ở biên giới- nơi tận cùng của Tổ quốc.
⇒ Hoàn cảnh đau đớn, éo le: cha bị bắt giải sang Trung Quốc không mong ngày trở về- nước mất nhà tan, cha con li biệt.
- Hình ảnh: “hạt máu nóng”, “hồn nước”,” tầm tã châu rơi”: Tận cùng đau đớn, tận cùng xót xa.
- Khuyên con trở lại để lo tính việc trả thù nước đền nợ nhà.
⇒ Lời khuyên có ý nghĩa như lời trăng trối. Nó thiêng liêng, xúc động và có sức truyền cảm hơn bao giờ hết khiến người đọc khắc cốt ghi xương.
* Tình đất nước và nỗi lòng người ra đi
- Hình ảnh ước lệ tượng trưng: bốn phương máu lửa, xương rừng máu sông, thành tung quách vỡ, bỏ vợ lìa con -> Hiện lên tình hình đất nước tang tóc, đau thương nhằm kể tội ác của giặc ngoại xâm.
- Hình ảnh ước lệ tượng trưng: giọng lâm li, thống thiết -> xé tâm can, ngậm ngùi, khóc than thương tâm, khối uất, vật cơn sầu, càng nói càng đau.
⇒ Nỗi đau vò xé trong lòng. Nỗi đau thương nước mất nhà tan thiêng liêng, cao cả, vượt lên số phận cá nhân trỏ thành nôi đau non nước, kinh động đất trời.
⇒ Đó còn là tâm trạng của nhân dân Đại Việt đầu thế kỉ XV, vừa là tâm trạng của tác giả và nhân dân Việt Nam đầu thế kỉ XX.
* Lời trao gửi sau cùng của người cha cho con
- Hình ảnh người cha: “Thân tàn”, “tuổi già sức yếu”, “sa cơ”, “đành bó tay” -> Khích lệ ý chí gánh vác giang sơn sau này của con.
- Nhấn mạnh nhiệm vụ gánh vác non sông đất nước là nhiệm vụ trọng đại, khó khăn, thiêng liêng vô cùng.
- Hoàn toàn tin tưởng và tin cậy vào con trai sẽ thay mình rửa nhục cho nhà, cho nước ⇒ Tinh thần, ý chí, lòng yêu nước.
3. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật làm nên thành công của tác phẩm.
- Liên hệ trình bày lòng yêu quê hương, đất nước của bản thân.