Top 5 Bài văn phân tích bài thơ Bến đò xuân đầu trại của Nguyễn Trãi (Ngữ văn 10) hay nhất

  1. Top 1 Bài tham khảo số 1
  2. Top 2 Bài tham khảo số 2
  3. Top 3 Bài tham khảo số 3
  4. Top 4 Bài tham khảo số 4
  5. Top 5 Bài tham khảo số 5

Top 5 Bài văn phân tích bài thơ Bến đò xuân đầu trại của Nguyễn Trãi (Ngữ văn 10) hay nhất

Thai Ha 375 0 Báo lỗi

Xuân Diệu từng nhận xét về thơ của Nguyễn Trãi rằng “Trán thi sĩ vượt mây nhưng ruột thơ vẫn cháy lên ngọn lửa đời rất ấm”. Quả thật, thơ Nguyễn Trãi từ xưa ... xem thêm...

  1. Nguyễn Trãi (1380-1442) nhà thơ lớn của Đại Việt trong thế kỷ 15. Ngoài những áng văn có sức mạnh như mười vạn quân. Ức Trai – Nguyễn Trãi còn để lại hai tập thơ – hai viên ngọc quý lấp lánh trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam: “Quốc âm thi tập” bằng chữ Nôm và “Ức Trai thi tập” bằng chữ Hán.


    Thơ Nguyễn Trãi đã dành cho thiên nhiên một địa vị cao sang. Màu xanh của cỏ, tiếng rì rầm của suối, bóng thông ven núi, tiếng cuốc gọi hè, vầng trăng soi vào chén rượu, cây chuối, cành mai, hoa sen trong đầm, hoa lựu thắp đỏ ngoài hiên… đã đi vào thơ Ức Trai như một mảnh tâm hồn. Đặc biệt Ức Trai có nhiều bài thơ xuân tuyệt tác. “Bến đò xuân đầu trại” là một bài thơ xuân đẹp như đóa hoa rực rỡ ngát hương trong “Ức Trai thi tập”


    Văn xuôi cổ có vần có đối, có cấu trúc câu văn theo thi pháp chặt chẽ.

    “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi,

    Lại có mưa xuân nước vỗ trời

    Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách

    Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”.

    (Bài thơ dịch)


    Bài thơ tả cảnh một ngày mưa xuân trên bến đò đầu trại. Cảnh vật như mờ đi, chìm đi trong một không gian bao la tĩnh lặng. Ức Trai đã viết bài thơ này trong những tháng năm sống ở Côn Sơn.


    Bao trùm lên không gian, lên bến đò là một màu xanh thẫm, xanh đen như khói của cỏ xuân. Vì đã cuối xuân nên sắc cỏ xanh rì, đứng xa thấy thảm cỏ xanh như khói. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh tạo nên một hình ảnh cụ thể ca ngợi vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt mùa xuân thôn dã nơi bến đò đầu trại:


    “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi”.


    Sắc cỏ, thảm cỏ trong thơ Nguyễn Trãi làm ta liên tưởng đến màu cỏ xanh trong thơ Nguyễn Du sau này: “Cỏ non xanh tận chân trời…” (Truyện Kiều).


    Câu thứ hai tả dòng sông với những con sóng “nước vỗ trời” (thuỷ phách thiên). Vì đã cuối xuân, trời mưa nhiều nặng hạt chuẩn bị cho những trận mưa rào đầu hè. Nước dòng sông dâng lên. Trời mưa, gió thổi, đứng xa ngắm cảnh thấy trên mặt sông nước bắn lên, vỗ lên ngang trời. Đó là một nét vẽ thậm xưng đặc tả con sóng trên dòng sông xuân một ngày mưa. Con sóng ấy, hình ảnh “nước vỗ trời” ấy biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của mùa xuân: “Lại có mưa xuân nước vỗ trời”. Mưa xuân là nét đặc trưng của mùa xuân Việt Nam bao trùm vạn vật, điều đó ai cũng có thể thấy được, nhưng cảm nhận “nước vỗ trời” trên dòng sông xuân, sự vận động của mùa xuân, bước đi của mùa xuân thì chỉ riêng Ức Trai mới biết đến và có một lối nói rất thơ.


    Câu thứ ba mở rộng không gian nghệ thuật nói về những con đường trên đồng nội đi tới bến đò vắng teo hành khách. Cảnh vật lặng lẽ thấm buồn. Mưa xuân kéo dài đã nhiều ngày rồi… “Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách”.


    Câu thơ thứ tư tả con đò, hình ảnh trung tâm của “bến đò xuân đầu trại”. Câu thơ chữ Hán: “Cô châu trấn nhật các sa miên” (Thuyền mồ côi suốt ngày gác đầu lên bãi mà ngủ). Trời mưa, không có khách qua đò. Con đò nay trở thành mồ côi, đơn độc. Con đò được nhân hóa đang nằm ngủ an nhan, ngon lành, gối đầu lên bãi cát mà ngủ. Mỗi câu thơ đầy thi vị, thơ mộng:


    “Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”.


    Con thuyền, con đò là hình ảnh được nói nhiều trong thơ Nguyễn Trãi. Và hầu như lúc nào cũng làm cho người đọc liên tưởng đến tâm tình nhà thơ trong những tháng ngày dài đi ở ẩn: nhàn tản, thư thái, ung dung:


    “Nước biếc non xanh, thuyền gối bãi,

    Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu”.

    “Hương cách gác vân thu lạnh lạnh

    Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh…”

    – “ Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

    Thuyền chở yên hà nặng vạy then”.

    (Quốc âm thi tập)


    “Bến đò xuân đầu trại” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bốn nét vẽ cảnh vật nên thơ hữu tình: màu xanh của cỏ, mặt sông vỗ sóng, con đường nội, con đò mồ côi nằm ngủ. Các biện pháp tu từ như so sánh, thậm xưng, nhân hóa được vận dụng tinh tế, nhằm tạo hình và gợi cảm.


    Cảm tĩnh lặng, thơ mộng, bình yên thoáng một nỗi buồn cô đơn. Tâm sự của nhà thơ được giãi bày kín đáo qua những vần thơ trong sáng nhẹ nhàng, thơ mộng. Một bức tranh xuân xinh xắn nơi làng quê trong thế kỷ 15. Bài thơ xuân đẹp, giúp ta yêu thêm mùa xuân quê nhà.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

  2. Xuân Diệu từng nhận xét về thơ của Nguyễn Trãi rằng “Trán thi sĩ vượt mây nhưng ruột thơ vẫn cháy lên ngọn lửa đời rất ấm”. Quả thật, thơ Nguyễn Trãi từ xưa đến nay không ai có thể cưỡng nổi lòng mình mà hết lòng khen ngợi. Đến với bài thơ “Bến đò xuân đầu trại” do ông chắp tay bằng chữ Hán đã để lại dấu ấn khó phai.


    “Độ đầu xuân thảo lục như yên

    Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên.

    Dã kính hoang lương hành khách thiểu,

    Cô châu trấn nhật các sa miên”.


    “Bến đò xuân đầu trại” viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, được rút trong tập “Ức Trai thi tập” miêu tả khung cảnh mưa mùa xuân trên bến đò đầu trại. Trong những ngày tháng sống ở Côn Sơn, tức cảnh sinh tình, Nguyễn Trãi đã không kìm được mà “nở hoa trên trang giấy”.


    Mở đầu bài thơ, nhà thơ viết:

    “Độ đầu xuân thảo lục như yên”

    (Dịch: Cỏ xuân ở đầu bến đò xanh như khói)


    Màu xanh của cỏ được hiện lên. Một màu xanh mơn mởn, căng tràn sức sống. Sắc xanh vào mùa xuân càng khiến trái tim người ta thêm phần háo hức. Thế nhưng, thảm cỏ đấy lại được nhà thơ ví “như yên”. Rõ ràng, màu xanh ở đây đã bị trộn lẫn bởi đám sương khói mờ mờ ảo ảo. Nó như thoắt ẩn thoát hiện, có cái gì đấy rõ nét nhưng có khi thì không.


    Trong làn sương chuyển dịch nhẹ nhàng lướt vào cỏ xanh, Nguyễn Trãi đã chú ý đến. Sự khác biệt của ông so với những nhà thơ khác ở chỗ, là người luôn tìm được cái cảm hứng trong ti tỉ những điều nhỏ nhặt, thậm chí là hiện tượng người ta lãng quên. Phép so sánh phần nào làm nổi bật được màu xanh trên nền sương khói xám trắng mơ hồ.


    “Xuân vũ thiên lai thủy phách thiên.”

    (Dịch: Lại thêm có mưa xuân nước vỗ vào nền trời)


    Mùa xuân đến, kéo theo những đợt mưa phùn lất phất. Ở đây, với Nguyễn Trãi, ông có cái nhìn hết sức mới lạ khi dùng “thủy phách thiên”. Đó là sự vận động của mùa xuân. Trên bến sông vào độ xuân ấy, những giọt mưa thả nhẹ lên mặt nước uyển chuyển và nhẹ nhàng. Mưa không chỉ chạm vào mặt nước vốn tĩnh lặng mà nó còn tưới mát thảm cỏ trên mặt đất vốn đã xanh mởn nay còn xanh hơn.


    “Dã kính hoang lương hành khách thiểu,”

    (Dịch: Đường ngoài nội vắng teo ít người đi lại)


    Câu thơ thứ ba trong bài là câu thơ tả thực, chuyển dịch từ cảnh vật thiên nhiên sang khung cảnh con người. Trên con đường đồng nội, những tưởng nhộn nhịp hóa ra chỉ là “thưa”. Bến đò hiu quạnh, lác đác vài người. Từ “quạnh” nhấn mạnh sự yên tĩnh đến thê lương.


    “Cô châu trấn nhật các sa miên.”

    (Dịch thơ: Chiếc thuyền đơn côi suốt ngày gối đầu lên bãi cát ngủ say)


    Có lẽ, đây là câu thần của bài thơ. Cảnh xuân ở bến đò đẹp đến nhường nào thì cảnh người lại khiến chúng ta khoác lên nỗi đượm buồn. Chiếc thuyền đơn côi tĩnh lặng trên mặt nước không vị khách “ghé thăm”. Vì thế mà chiếc thuyền này đã “gối đầu” lên bãi cát mơ màng ngủ cũng bởi tiết trời mưa. Hình ảnh vừa thi vị vừa thơ mộng.


    Bằng tài năng của mình, Nguyễn Trãi viết nên bài thơ để đời. Thơ là tiếng lòng. Bởi nếu không xuất phát từ một trái tim chân thành, muốn được viết, được chép, được ghi lại khoảnh khắc này thì làm sao có một bài thơ hay thế này. Việc sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa khiến cảnh và người trở nên hài hòa, lắng đọng. Bài thơ thành công diễn tả được bức tranh xuân yên bình, và ẩn chứa sau đó là một tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước.


    Như vậy, qua bai thơ “Bến đò xuân đầu trại”, nhà thơ Nguyễn Trãi đã cho người đọc cảm nhận sâu sắc về cảnh mưa ngày xuân dạt dào tình cảm.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Thiên nhiên là chiếc nôi khổng lồ chứa đựng bao điều bí ẩn. vẻ đẹp của thiên nhiên không bút nào tả xiết, từ xưa đến nay, vẻ đẹp đó luôn thay đổi theo nhịp thời gian. Thiên nhiên là nguồn cảm hứng cho biết bao thi sĩ, nghệ nhân. Từ những nông dân bình dị cho đến người trị vì đất nước, tất cả đều bị thiên nhiên cuốn hút và họ trở nên hòa nhập, đồng cảm với thiên nhiên, khám phá ra vẻ tuyệt mĩ của nó.


    Đã có biết bao bài thơ, khúc ca ra đời từ giây phút đón nhận, cảm nhận được vẻ đẹp ấy của những khoảnh khắc thời gian Bến đò xuân đầu trại của Nguyễn Trãi, Có bệnh bảo mọi người của Mãn Giác, Cảnh mùa xuân của hoàng đế Nhân Tông. Đó cũng chính là lúc con người mở rộng tâm hồn mình đón nhận thiên nhiên tươi đẹp.


    Cảnh thiên nhiên trong thơ ca cổ điển được miêu tả rất sống động, có hình ảnh và trữ tình. Tuy chỉ là vài nét chấm phá cũng đã tạo nên những đường nét uyển chuyển, gợi cảm, làm cho tâm hồn người đọc cũng rung cảm trước vẻ đẹp của cảnh bằng những nhận xét tinh tế, sâu sắc và chân thực của các thi sĩ. Trong đó đặc biệt là những tác phẩm của Nguyễn Trãi.


    Đọc bài thơ sau ta sẽ cảm nhận được tâm hồn nhà thơ hơn:


    Cỏ xanh như khói bến xuân tươi

    Lại có mưa xuân nước vỗ trời

    Đường đồng quạnh quẽ thưa vắng khách

    Con đò gối bãi suốt ngày ngơi.

    (Bến đò xuân đầu trại - Nguyễn Trãi)


    Thiên nhiên ở đây được miêu tả là mùa xuân của quê hương Nguyễn Trãi. Mùa xuân rất đẹp: cỏ xanh tươi non mơn mởn trông xa như làn khói lam phủ nhẹ trên bến đò. Điểm vào khung cảnh huyền ảo đó là những hạt mưa xuân bay lất phất như lơ lửng, lửng lơ ngang trời.


    Đọc câu thơ ta có cảm giác cảnh đẹp nhưng hoang vắng, quạnh quẽ làm sạo! Xen giữa khung cảnh tươi đẹp của mùa xuân, tại sao Nguyễn Trãi lại tả cảnh quạnh quẽ, trông vắng của con đường đồng nhỏ? Tại sao ông không tả cảnh tấp nập của những người dân trên đường về làng sau buổi chợ? Sao ông chỉ miêu tả có con đò nằm trên bãi cát, trong khi bao cảnh đẹp khác ông bỏ qua?


    Đây chính là chỗ bộc lộ tâm tình của Nguyễn Trãi, một bậc trung quân hết lòng vì dân vì nước, nhưng chán ghét thói đời nhiễu nhương, ông lui về ẩn tại quê hương, sống những năm tháng cuối đời trong cảnh thiên nhiên tươi đẹp.


    Cô đơn và lẻ loi giữa thời đại ông đang sống, không người tri kỷ, ông làm bạn với thiên nhiên, chan hòa với thiên nhiên, cảm thụ vẻ tươi sáng của thiên nhiên để làm nên những tác phạm xuất chúng, trữ tình, bất hủ. Nhà thơ muốn qua đó để gửi gắm tâm sự cô độc, lẻ loi, nỗi cô đơn trong tâm hồn mình để người đời hiểu rõ ông hơn, có cách nhìn khác đối với ông.


    Chính tâm sự này đã giúp chúng ta, những thế hệ sau này càng thêm kính trọng ông hơn, chia sẻ với ông nỗi cô đơn, lạnh lẽo làm con người suy sụp dần. Đây chính là nét đặc trưng của văn thơ Nguyễn Trãi là phong cách “tả cảnh ngụ tình” thường gặp ở văn thơ cổ điển thời phong kiến.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  4. Thiên nhiên không chỉ là nguồn cảm hứng mà còn ẩn chứa nỗi lóng của Nguyễn Trãi. Thơ xuân của Nguyễn Trãi đẹp lắm. Người anh hùng – nhà thi sĩ với thanh gươm và bầu rượu túi thơ như chan hòa với mùa xuân và cỏ cây hoa lá. Bao vần thơ chứa chan xuân sắc xuân tình.


    Tiêu biểu cho thơ xuân của Nguyễn Trãi là bài thơ bằng chữ Hán: “Bến đò xuân đầu trại’’ trong “ức Trai thi tập”. Qua bài thơ ấy, chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc: “Thiên nhiên không chỉ là nguồn cảm hứng mà còn ẩn chứa nỗi lòng của Nguyễn Trãi”.


    Bao trùm không gian, lên bến đò là một màu xanh thẫm. xanh đen như khói của cỏ xuân. Cuối xuân, sắc cỏ xanh rì, đứng xa thấy thảm cỏ “xanh như khói”:


    “Cỏ xanh như khối bến xuân tươi”


    Nhà thơ sử dụng biện pháp tu từ so sánh tả sắc cỏ một cách cụ thể sống động, ca ngợi vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của thiên nhiên.


    Thơ cổ có nhiều câu đẹp tả sắc cỏ mùa xuân. “Cỏ non xanh tận chân trời…” (Truyện Kiều), “Cỏ biếc um, dâu mướt màu xanh” (Chinh phụ ngâm).


    “Lại có mưa xuân nước vỗ trời”


    Cuối xuân, mưa nhiều, nước sông lên to, gió thổi “sóng vỗ trời” (thúy phách thiên); một nét vẽ thâm xưng đặc tả con sóng trên dòng sông xuân dưới màn mưa. Con sóng “nước vỗ trời” biểu tượng cho sức xuân. Mưa xuân là nét đặc trưng của mùa xuân quê ta, bao trùm vạn vật, điều đó ai cũng cảm nhận được. Nhưng thấy “nước vỗ trời” trên dòng sông xuân, sự vận động của mùa xuân, bước đi của mùa xuân thì chi riêng ức Trai mới cảm xúc được và có một lối nói rất thơ.


    Câu ba mở rộng không gian miêu tả, nói về những con đường trên đồng quê đi tới bến đò. Mưa liên miên, ú khách lại qua. Cảnh vật tĩnh lặng thấm buồn “quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách”.


    Câu bốn tả con đò, trung tâm của bức tranh “Bến đò xuân đầu trại”. Câu thơ chữ Hán: (Thuyền mồ côi suốt ngày gối đầu lên bãi mà ngủ.


    Trời mưa không có khách qua đò. Con đò nay trở thành mồ côi, đơn độc. Con đò được nhân hóa đang nằm ngủ an nhàn ngon lành, gối đầu lên bãi cát mà ngủ. Một câu thơ đầy thi vị, -thơ mộng:


    “Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”.


    Con thuyền, con đò là hình ảnh được nói đến nhiều trong thơ Nguyễn Trãi. Con đò dưới vầng trăng. Con đò kề bãi tuyết. Con đò trong mưa… Hình ảnh ấy lúc nào cũng làm cho người đọc liên tưởng đến tâm tình nhà thơ trong những tháng ngày dài đi ớ ẩn: nhàn tản, thư thái, ung dung, thoáng một nỗi buồn cô đơn, lạnh lẽo.


    “Nước biếc non xanh thuyền gối bãi

    Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu”

    “Hương cách gác vân thu lạnh lạnh.

    Thuyền kê bãi tuyết nguyệt chênh chênh”

    (Quốc âm thi tập)


    “Bến đò xuân đầu trại” không chỉ là một bài thơ tả cảnh mà còn chứa đầy tâm sự. Cảnh được phác họa mấy nét chấm phá rất thần tình. Bức tranh xuân thân thuộc, bình dị, đáng yêu. Nguyễn Trãi hòa nhập với thiên nhiên, gửi hồn mình vào cảnh vật. Qua bài thơ, ta cảm nhận “thiên nhiên không chỉ là nguồn cảm hứng mà còn ổn chứa nỗi lòng ức Trai”. “Bến đò xuân đầu trại” là một bài tứ tuyệt kiệt tác.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  5. Bến đò xuân đầu trại được viết khi Nguyễn Trãi (thế kỉ XV) cáo lão về ở ẩn, ông đã góp vào vườn thơ xuân đất nước những sắc xuân dịu dàng, tươi mới. Cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên mùa xuân, nhà thơ Nguyễn Trãi viết:


    “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi

    Lại có mưa xuân nước vỗ trời

    Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách

    Con đò gối bãi suốt ngày ngơi.”


    Bức tranh xuân được Nguyễn Trãi vẽ bằng ngôn từ tiếng Việt trong sáng giàu hình ảnh và mỗi nét trong tranh đều thắm đượm hồn quê Việt.


    Cảnh xuân trên bến sông được phác họa bàng những nét đon sơ: có cỏ xanh, mưa xuân, con đường làng, con đò. Mỗi nét vẽ đều mang đậm hồn quê. cỏ được ngắm nhìn qua làn mưa nên màu cỏ nhạt nhòa tựa như làn khói xanh êm ả mà tràn đầy sức sống, cỏ được so sánh gợi lên vẻ đẹp mơ màng huyền ảo của bến sông quê.


    Mưa xuân lất phất đủ làm đầy con nước. Mưa như những giọt lành ban phát cho đất, nước sông đón nước trời rồi cùng hòa nhịp vỗ lên mây. Cảnh xuân tuyệt diệu, tràn đầy sức sống.


    Ẩn trong mỗi bức tranh xuân là ý xuân, tình xuân dạt dào tha thiết, là tâm sự sâu kín của nhà thơ.

    Những con đường trên đồng nội đi tới bến đò thưa vắng hành khách. Cảnh vật lặng lẽ thấm buồn. Mưa xuân kéo dài đã nhiều ngày. Trời mưa, không có khách qua đò. Con đò nay mồ côi, đơn độc, được nhân hóa đang nằm an nhàn, gối đầu lên bãi cát mà ngủ ngon lành.


    Con đò là một hình ảnh ẩn dụ mang hồn người. Con đò nơi bến vắng kí thác nhiều tâm sự của tác giả, gọi liên tưởng đến tâm tinh nhà thơ trong những tháng ngày dài đi ở ẩn: nhàn tản, thư thái, ung dung.

    Tác giả Nguyễn Trãi sử dụng gam màu tươi sáng để miêu tả bức tranh xuân, mỗi nét trong tranh đều gần gũi với làng quê Việt Nam. Nguyễn Trãi, một anh hùng dân tộc, nặng tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước. Nguyễn Trãi đã lắng đọng tâm tư để đón nhận vẻ đẹp thiên nhiên, nâng niu vẻ đẹp đó đặt lên trang thơ của mình.


    Vườn thơ xuân thời trung đại còn lưu lại những vần thơ giàu cảm xúc khác như: Cuối xuân tức sự (Nguyễn Trãi), Xuân (Trần Nhân Tông), Cáo tật thị chúng (Mãn Giác thiền sư)… Tất cả đều cho thấy tâm hồn thanh bạch của những bậc cao nhân yêu đất nước, yêu thiên nhiên sâu sắc.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy